Ngoại giao Việt Nam 25 năm đổi mới
1- Bước đột phá đầu tiên Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) trên cơ sở phân tích đúng tình hình và xu thế quốc tế, đánh giá sát tình hình trong nước, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đã đi đến những quyết định có ý nghĩa lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện, trước hết là đổi mới về kinh tế.
Về đối ngoại, Đại hội VI nêu nhiệm vụ hàng đầu là “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”. Triển khai đường lối đối ngoại đã được Đại hội thông qua, ngày 20-5-1988, Nghị quyết Trung ương 13 với chủ đề “giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế” khẳng định rằng, trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, nước ta có cơ hội lớn để thực hiện nhiệm vụ chiến lược bao trùm đó. Trên cơ sở làm rõ một số quan điểm về chiến tranh và hoà bình, an ninh và phát triển, kinh tế với quốc phòng và quan hệ quốc tế, dân tộc và quốc tế, mở rộng hợp tác quốc tế với đoàn kết quốc tế, quan hệ đồng minh, làm nghĩa vụ quốc tế…, Nghị quyết đề ra một loạt chính sách nhằm chuyển toàn bộ quan hệ đối ngoại của Việt Nam từ đối đầu sang đối thoại, nhằm phá thế bị bao vây, cấm vận, giữ vững hoà bình, ổn định và phát triển kinh tế.
Nghị quyết đặt nhiệm vụ giải quyết vấn đề Cam-pu-chia lên hàng đầu, đồng thời thúc đẩy đối thoại với các nước ASEAN, Trung Quốc và Hoa Kỳ. Với các giải pháp được đưa ra cho vấn đề Cam-pu-chia đều nhận được sự chấp thuận của các bên, ngày 23-10-1991, Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết. Đồng thời với quá trình chuẩn bị Hiệp định quốc tế về Cam-pu-chia, Việt Nam và các nước ASEAN đã xúc tiến đối thoại trên tinh thần hữu nghị.
Với Trung Quốc, để thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ Việt - Trung, thực hiện chủ trương “... kiên trì và chủ động để bình thường hoá quan hệ Việt - Trung và khôi phục quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước”, Việt Nam đã thực hiện một số bước mạnh mẽ theo hướng hoà dịu, nối lại đàm phán từ tháng 1-1989. Sau khi hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết, đoàn cấp cao của Việt Nam sang thăm Trung Quốc (tháng 11-1991), quan hệ Việt Nam – Trung Quốc được bình thường hoá, quan hệ giữa hai Đảng cũng được khôi phục.
Cùng với những tiến triển trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước, Mỹ cũng rút bỏ sự ủng hộ đối với “Chính phủ ba phái có Khơme đỏ”, bắt đầu đối thoại với Việt Nam về vấn đề Cam-pu-chia và các vấn đề hai bên cùng quan tâm. Cuộc gặp gỡ Bộ trưởng ngoại giao hai nước ngày 29-9-1990 đánh dấu một bước hoà dịu trong quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ.
Các nước phát triển phương Tây đã lần lượt nối lại quan hệ với Việt Nam, đầu tiên là các nước Tây Bắc Âu rồi Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân… Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ với các nước này trước khi bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Nhìn lại chặng đường đầu tiên trong công cuộc đổi mới, chủ trương “Hoà bình để phát triển” đã tạo nên một bước đột phá lớn về mặt ngoại giao, chấm dứt thời kỳ nặng nề, đặt nền móng cho việc lập lại quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước tư bản phát triển, mở đường cho việc sớm thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, mở ra cục diện mới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng lại đất nước sau 30 năm chiến tranh và 10 năm khủng hoảng, góp sức đưa đến những thành công to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước.
2. Tiếp tục đổi mới tư duy, mở rộng quan hệ, bước đầu hội nhập kinh tế thế giới.
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, trên thế giới đã diễn ra biến động to lớn với sự tan rã của Liên Xô, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, kéo theo sự thoái trào của phong trào cách mạng, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đây là một tổn thất nặng nề của cách mạng thế giới và cũng là một thiệt thòi lớn đối với Việt Nam. Chúng ta không còn đồng minh chiến lược, không còn chỗ dựa quan trọng về chính trị, mất đi một nguồn viện trợ to lớn về kinh tế…Trong khi đó, đất nước lại chưa thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Hơn lúc nào hết, tình hình quốc tế đòi hỏi ngoại giao Việt Nam phải thật tỉnh táo, tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại, nắm vững hơn nữa xu thế quốc tế, tìm cách tiếp cận và tranh thủ các đối tượng khác nhau trong quan hệ quốc tế.
Trên tinh thần đó, Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó, về đối ngoại đã xác định “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”(1). Cương lĩnh và Nghị quyết Đại hội đề ra chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, hợp tác và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình…”
Nếu như trước đây chúng ta có phương châm “thêm bạn bớt thù”, thì nay chúng ta làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới; trước chúng ta ưu tiên hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, nay chúng ta mạnh mẽ đề ra đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế…Đó là những nét sáng tạo, đổi mới tư duy đối ngoại theo hướng rộng mở, uyển chuyển, phù hợp với yêu cầu của đất nước và xu thế chung trên thế giới. Theo phương châm đó, ngoại giao tiếp tục thắng lợi, đẩy mạnh các hoạt động, mở rộng quan hệ với các nước, trước hết là các nước lớn, mở rộng quan hệ với các khu vực, các tổ chức quốc tế, tạo thuận lợi cho việc hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày 28-7-1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN và sau đó nhanh chóng tham gia Hiệp định thương mại tự do ASEAN. Trở thành thành viên của ASEAN, Việt Nam hội nhập vào khu vực, gắn kết với các nước trong khu vực có nguyện vọng xây dựng một khu vực hoà bình, an ninh, phát triển, không có vũ khí hạt nhân, có quan hệ hữu nghị với tất cả các nước. Nguyện vọng đó hoàn toàn phù hợp với quan điểm và lợi ích của Việt Nam.
Ngày 3-2-1994, Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn (Bill Clinton) tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam và ngày 11-7-1995, tuyên bố chính thức bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Với việc bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, lần đầu tiên, Việt Nam có quan hệ với tất cả các nước trên thế giới. Cũng từ đây, nước ta khai thông được quan hệ với Liên minh châu Âu (EU), để đến ngày 20-10-1990, hai bên chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Tiếp đến, tháng 7-1995, Việt Nam và EU ký hiệp định khung về hợp tác giữa hai bên. Hiệp định này có ý nghĩa to lớn, đánh dấu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa Việt Nam và EU. Từ Hiệp định khung với cả EU, quan hệ song phương giữa Việt Nam với từng nước thành viên của EU cũng được mở rộng thêm.
Tiếp tục lộ trình hội nhập khu vực và thế giới, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11-1998, ký Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng là một nỗ lực và thành công lớn của Việt Nam trên đường hội nhập, tham gia Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) với tư cách là một trong 25 thành viên sáng lập.
Trước đây ngoại giao đã “làm kinh tế”, nay với đà hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của ngoại giao càng lớn hơn, nặng nề hơn. Những sự kiện ngoại giao lớn trong năm 1995 nói riêng và trong những năm cuối của thập niên 90 đã góp phần tạo nên một vị thế, một hình ảnh mới của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Mạnh mẽ hội nhập kinh tế quốc tế với đỉnh cao đối ngoại – năm Chủ tịch ASEAN thành công
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới có thêm những chuyển động lớn với những phức tạp, bất ổn khó lường. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với tốc độ cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế thế giới và quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế gia tăng cả về chiều rộng và bề sâu, trở thành một xu thế khách quan cuốn hút mọi quốc gia tham gia. Toàn cầu hoá kinh tế với cốt lõi là tự do hoá thương mại và đầu tư đã giúp các nước mở rộng thị trường, tranh thủ vốn và công nghệ để phát triển, nhưng cũng đặt ra những thách thức mới. Kinh tế trở thành nhân tố quyết định sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia và vị thế quốc gia đó trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh chung đó, Đảng ta nhận định mặc dù cạnh tranh quốc tế diễn ra gay gắt, chiến tranh và xung đột vẫn diễn ra ở một số nơi trên thế giới, nhưng xu thế hoà bình, hợp tác, đặc biệt là hợp tác về kinh tế, vẫn là chủ đạo. Để hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 - 2010), ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 07 về hội nhập kinh tế quốc tế: “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc quốc gia bảo vệ môi trường”… Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Mục tiêu cụ thể được đặt ra lúc này là gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Đến tháng 11-2006, sau hơn 10 năm đàm phán, Việt Nam được chính thức kết nạp, trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Đây là một dấu mốc quan trọng trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, mở ra nhiều thuận lợi cho đất nước, phát triển thương mại, tranh thủ đầu tư nước ngoài phát triển kinh tế. Một năm sau khi gia nhập WTO (năm 2007), GDP của Việt Nam tăng 8,48%, xuất khẩu đạt 21,5%, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt 20,3 tỉ USD.
Bên cạnh những thuận lợi, kết quả đạt được, chúng ta vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, chẳng hạn, phải chấp nhận sau 12 năm mới được công nhận có nền kinh tế thị trường đầy đủ. Ngoại giao đã phối hợp với các ngành liên quan vận động một số nước bạn bè công nhận sớm công nhận chúng ta có nền kinh tế thị trường đầy đủ gồm ASEAN, Nga, U-crai-na, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân và một số nước Nam Mỹ. Vượt qua khó khăn, tranh thủ lợi thế mới, ngoại giao đã góp sức tham mưu, mở đường, làm cầu nối để các cơ quan kinh tế thương mại tiếp xúc, lập quan hệ hợp tác với các cơ quan kinh tế, xí nghiệp nước ngoài. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ, trong đó các đối tác buôn bán lớn nhất là Trung Quốc với 25 tỉ USD thương mại hai chiều (năm 2010) và Mỹ 16 tỉ USD (2010).
Thắng lợi ngoại giao trong 10 năm cuối thế kỷ trước và 10 năm đầu thế kỷ này đã đưa tới và hội tụ nổi bật trong năm 2010 với những hoạt động toàn diện, sôi nổi, đặc biệt là hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch ASEAN 2010. Với cương vị Chủ tịch, Việt Nam đã tổ chức tốt tất cả các hội nghị diễn ra trong năm. Chỉ tính riêng tại Hội nghị cấp cao ASEAN 17 và các hội nghị liên quan, Việt Nam đã đón 17 vị Tổng thống, Thủ tướng các nước ASEAN, các nước đối thoại ASEAN và gần 2600 đại biểu, 900 phóng viên quốc tế. Với một lịch hoạt động cấp cao dày đặc (14 hội nghị), Việt Nam đã điều hành thông suốt, êm đẹp, bảo đảm chương trình, thời gian, công tác lễ tân, hậu cần, thông tin, an ninh, nhưng quan trọng hơn là đã hoàn thành một khối lượng rất lớn nội dung với nhiều vấn đề có tầm chiến lược, phức tạp và nhạy cảm, đưa ra được các định hướng ưu tiên, các giải pháp thoả đáng, các cách ứng xử, các quyết sách hợp lý, nhận được sự ủng hộ và đồng thuận của nhiều bên.
Bên cạnh công tác điều hành với cương vị Chủ tịch ASEAN, ngoại giao đa phương còn được triển khai ở các cấp độ khu vực, liên khu vực và toàn cầu thông qua các hoạt động tại các diễn đàn ASEM, APEC, G20…Về ngoại giao song phương, trong năm 2010, Việt Nam cũng đạt được những thành công lớn với tất cả các đối tác trọng điểm, mở rộng diện các nước có quan hệ đối tác chiến lược.
Trong trả lời phỏng vấn cuối năm 2010, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đánh giá thành công trong mặt trận đối ngoại là thành công nổi trội nhất, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên quốc tế. Năm 2010 ghi đậm dấu ấn trong lịch sử ngoại giao Việt Nam những năm đầu thập kỷ XXI.
4. Nhìn lại thành tựu ngoại giao hai thập niên qua
Tuy hết sức khiêm tốn, nhưng chúng ta vẫn hoàn toàn có thể tự hào với những đóng góp mà ngành ngoại giao đã đạt được trên cơ sở triển khai đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, nắm chắc và vận dụng sáng tạo, linh hoạt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Nhìn lại hai thập niên qua, có thể khái quát những thành tựu đó ở một số nét lớn sau.
- Mở rộng thêm quan hệ với 60 nước kể từ khi đất nước được thống nhất. Tính đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 170 nước, có quan hệ buôn bán và đầu tư với 230 nước và vùng lãnh thổ. Như vậy, có thể coi Việt Nam đã có quan hệ rộng khắp với toàn thế giới.
- Thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, từ 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm G7, G8, nhóm BRIC cho đến tất cả các nước G20. Tạo được quan hệ hữu nghị, hợp tác tin cậy với hầu hết các nước có tầm vóc trên thế giới. / - Xây dựng được quan hệ hữu nghị với tất cả các nước láng giềng: quan hệ đặc biệt với Lào, hợp tác toàn diện với Cam-pu-chia tiếp tục tăng cường; hoàn thành phân giới cắm mốc trên tuyến biên giới đất liền với Trung Quốc. Bảo vệ, gìn giữ quan hệ với các đối tác bạn bè, đối tác truyền thống như Cu-ba, Nga, các nước châu Phi, các nước vùng Vịnh Péc-xích.
- Trở thành thành viên chính thức, có những đóng góp tích cực, trách nhiệm với tất cả các tổ chức quốc tế quan trọng như Liên hợp quốc, WTO, APEC, ASEM, ASEAN, Cộng đồng Pháp ngữ, Phong trào không liên kết, Ủy ban sông Mê-công…, được dư luận trong nước và thế giới đánh giá cao.
- Giữ vững sự ổn định chính trị trong nước, tạo được một môi trường quốc tế thuận lợi chưa từng có để giữ vững hoà bình, an ninh và mở rộng hợp tác, tranh thủ, vốn, kỹ thuật, trí thức, kinh nghiệm để phát triển đất nước.
- Công tác người Việt Nam ở nước ngoài được đổi mới trên cơ sở coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận khăng khít, không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.Với nhận thức đó, chúng ta đã bổ sung chính sách, tháo gỡ những vướng mắc như vấn đề quốc tịch, cư trú, hồi hương, quyền mua và sở hữu nhà ở trong nước… tạo không khí phấn khởi, lòng tin, tăng thêm sự gắn bó của bà con Việt kiều với đất nước. Một thí dụ minh họa là số bà con Việt kiều về thăm quê, vui Tết cổ truyền ngày càng đông, lượng kiều hồi gửi về nước ngày càng tăng (8 tỉ USD trong năm 2010).
- Ngoại giao văn hoá có nhiều khởi sắc. Đã có nhiều công trình được công nhận là di sản văn hoá thế giới như kinh đô Huế, Thánh địa Mỹ Sơn, Vịnh Hạ Long, các di sản văn hoá phi vật thể như không gian cồng chiêng Tây Nguyên, nhã nhạc cung đình Huế, hát quan họ Bắc Ninh. Năm nay 2010, trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, Hoàng thành Thăng Long đươck UNESCO công nhận là dia sản văn hoá thế giới. Những hoạt động văn hoá đó đã góp phần tô đẹp thêm hình ảnh nước Việt Nam trên toàn thế giới.
- Vị thế của nước ta được nâng cao rõ rệt trên quốc tế. Từ trước đến nay, Việt Nam được thế giới vinh danh trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước với Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, Chiến thắng Mùa Xuân năm 1975. Ngày nay, thế giới đánh giá cao Việt Nam trong cuộc chiến xoá đói, giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong thời gian dài, giữ vững an ninh chính trị và an toàn xã hội.
Như vậy, có thể nói, từ việc nhấn mạnh đường lối “hoà bình để phát triển kinh tế”, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước, rồi “đề cao đường lối độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế”, với tinh thần "Việt Nam sẵn sàng làm bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế”, chúng ta đã chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, góp phần đưa quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác ngày càng đi vào chiều sâu, tiến kịp trào lưu thế giới, nâng vị thế quốc tế của đất nước lên tầm cao mới, góp phần thiết thực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Back Top page Print Email |