Trang chủ     Đăng ký nhận tin    Ý kiến bạn đọc   Liên kết website English 
Chủ nhật, ngày 22 tháng 12 năm 2024 Tìm kiếm
 Tìm kiếm nâng cao

THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ AI-LEN VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM - AI-LEN


                             TÀI LIỆU CƠ BẢN AI-LEN (IRELAND)

 

 

I. Khái quát chung:

 

Tên nước:

Ai-len (Ireland)

Thủ đô:

Dublin

Ngày Quốc khánh:

17/3 (Ngày Thánh Patrick)

Vị trí địa lý:

Ai-len là quốc đảo, nằm trong biển Bắc Băng Dương, ở cực Tây – Bắc Châu Âu, phía đông giáp biển nằm giữa Ai-len và nước Anh, phía Tây giáp Bắc Băng Dương.

 

Diện tích:

70.282 km2

 

Khí hậu:

Do ảnh hưởng dòng hải lưu Gulf Stream, nên có nhiều gió mạnh thổi theo hướng Tây Nam và nhiệt độ toàn quốc không khác nhau. Tháng lạnh nhất là tháng Giêng và tháng hai từ 4-70 C. Tháng ấm nhất là 7 và 8, nhiệt độ 14-160C. Hòn đảo Ai-len bị tách khỏi châu Âu vào thời kỳ cuối của kỷ nguyên Băng hà, do đó các loại động thực vật ít hơn châu Âu.

 

Dân số:

4,5 triệu người

 

Ngôn ngữ:

Tiếng Anh và tiếng Ai-len

 

Đơn vị tiền tệ:

Euro

 

GDP:

172 tỷ USD

 

Thu nhập bình quân đầu người:

37,600 USD

 

 

Tôn giáo:

Thiên chúa 87,4%; không tôn giáo 4,2%; còn lại là tôn giáo khác

 

Lãnh đạo chủ chốt:

 

+ Tổng thống: Bà Ma-ri Mác-A-li-xơ (Mary McALEESE), nhậm chức tháng 11/1997, nhiệm kỳ 7 năm, tái đắc cử nhiệm kỳ hai vào năm 2004.

+ Thủ tướng: Ông En-đa Ken-ni (Enda Kenny), từ tháng 3/2011 (Đảng Fine Gael)

+ Ngoại trưởng: Ông I-e-mon Gin-mo (Eamon Gilmore), nhậm chức tháng 3/2011(Đảng Lao động)

+ Chủ tịch Hạ viện: Ông Sin Ba-rét (Sean Barrett), nhậm chức tháng 3/2011 (Đảng Fine Gael).

 

 

 

II. Khái quát lịch sử:

Ai-len ra đời năm 1922 sau khi 26 tỉnh của đảo Ai-len tách khỏi Vương Quốc Anh. Sáu tỉnh còn lại vẫn thuộc Anh, thường gọi là Vùng Bắc Ai-len. Trước đó, Ai-len nằm dưới quyền cai trị của Vương Quốc Anh trong nhiều thế kỷ.

Từ cuối thế kỷ 19 (1874), người Ai-len đã đấu tranh xây dựng một hệ thống luật pháp riêng nhằm dành quyền tự trị mà không buộc đảo này phải tách hẳn khỏi Anh quốc. Tuy nhiên, từ đó đã nảy sinh ra mâu thuẫn trong nội bộ Ai-len giữa một bên là những người Tin lành theo chủ nghĩa liên minh (unionism), muốn Ai-len tiếp tục nằm trong nước Anh và một bên là những người Thiên chúa giáo theo phe Sinn Fein, muốn Ai-len tách hoàn toàn khỏi Anh thành quốc gia độc lập. Chủ nghĩa Liên minh đặc biệt phát triển mạnh ở khu vực Ulster phía bắc, nơi công nghiệp hóa phát triển mạnh so với phần còn lại của Ai-len chủ yếu làm nông nghiệp. Năm 1914, để tránh một cuộc nội chiến ở Ulster, Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là Asquith, với sự đồng thuận của lãnh đảo đảng Quốc hội Ai-len đã trao quyền tự trị cho 26 trong số 32 tỉnh của Ai-len, 6 tỉnh phía Bắc nằm ngoài thỏa thuận này. Tuy nhiên do Thế chiến thứ nhất nổ ra năm 1914, thỏa thuận này chưa được áp dụng.

          Năm 1919, sau cuộc bầu cử Quốc hội, 73 trong số 106 nghị sỹ quốc hội thuộc đảng Sinn Fein từ chối không tham gia Hạ nghị viện Anh mà thay vào đó lập Quốc hội riêng của Ai-len (Dail Eireann). Quốc hội Ai-len tháng 1/1919 đơn phương ra bản Tuyên ngôn độc lập và tuyên bố thành lập Cộng hòa Ai-len. Tuy nhiên Cộng hòa Ai-len, không được quốc tế công nhận (trừ Liên bang Xô Viết). Sau cuộc chiến giành độc lập, Anh và Ai-len đàm phán Hiệp định Anh – Ai-len năm 1921, cho ra đời nước Ai-len Tự do. Ai-len Tự do bao gồm 26 tỉnh, 6 tỉnh phía bắc còn lại được quyền chọn hoặc gia nhập quốc gia mới, hoặc vẫn giữ thuộc về Anh và họ đã chọn ở lại Vương quốc Anh. Đứng đầu của nước Ai-len độc lập là nhà vua Ai-len.

          Cuộc nội chiến Ai-len là hệ quả của Hiệp định này. Cuộc nội chiến đã chia rẽ quân đội Cộng hòa Ai-len (IRA) thành hai phe: phe chống và phe ủng hộ Hiệp định. Các lực lượng chống Hiệp định muốn chấm dứt hoàn toàn ảnh hưởng của Anh và muốn Ai len từ bỏ khối Thịnh vượng chung của Anh. Chiến tranh liên miên đã làm kiệt quệ nền kinh tế Ai-len trong nhiều năm. Ngày 29/12/1937, Hiến pháp mới của Ai-len ra đời thay tên nước Ai-len Tự do bằng tên mới Ai-len, và quy định người đứng đầu nhà nước Ai-len là Tổng thống thay vì Nhà vua. Ai-len đã gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1955, Khối Thị trường chung châu Âu, tiền thân của Liên minh châu Âu năm 1973 (cùng với Anh).

 

III. Thể chế nhà nước, chế độ chính trị, đảng phái chính trị, Lãnh đạo chủ chốt (thuộc đảng phái nào):

+ Tổng thống : được dân bầu trực tiếp, tuổi phải từ 35 trở lên, nhiệm kỳ 7 năm và chỉ được bầu lại 1 lần. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia, Tổng tư lệnh các lực lượng quốc phòng, có quyền bổ nhiệm Thủ tướng, bổ nhiệm và mãn nhiệm thành viên Chính phủ (qua đề nghị của Quốc hội). Từ năm 1937 đến nay, Ai-len có 7 Tổng thống, 3 người đã cầm quyền 2 nhiệm kỳ liền. Tổng thống hiện nay là Bà Mary Mcaleese, nhậm chức từ tháng 11/1997, tái đắc cử năm 2004.

+ Chính phủ : Hiến pháp quy định thành viên Chính phủ không ít hơn 7 và không nhiều hơn 15 Bộ trưởng. Thủ tướng, Phó Thủ tướng và Bộ trưởng Tài chính phải là thành viên Quốc hội, các thành viên khác có thể là nghị sỹ trong Hạ viện hay Thượng viện và không nhiều hơn 2 thành viên thuộc Thượng viện. Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Hạ viện, và có thể bị buộc từ chức nếu không được đa số ủng hộ của Hạ viện. Bộ trưởng có thể đứng đầu hơn 1 Bộ. Chính phủ hiện này là liên minh hai đảng: Đảng Fine Gael (Đảng của Thủ tướng Enda Kenny) và Công đảng.

+ Quốc hội (Oireachtas) được chia làm 2 Viện.

- Thượng viện (Seanad Eireann): 60 thượng nghị sỹ trong đó 11 do Thủ tướng đề cử, 43 bầu từ 5 Ban chuyên trách (Văn hoá; Giáo dục; Nông nghiệp; Lao động, công nghiệp và thương mại; Hành chính), còn 6 thượng nghị sỹ do các trường đại học bầu (3 trường đại học quốc gia Ai-len và Đại học Dublin).

          Thượng viện có ít quyền lực, chỉ có thể lùi thời gian thông qua các luật chứ không thể phủ quyết các dự luật. Tỷ lệ số thượng nghị sĩ phản ánh tỷ lệ thắng cử của các đảng tại bầu cử Hạ viện.

- Hạ Viện (Dail Eireann): có 166 hạ nghị sĩ, được bầu từ 41 đơn vị bầu cử (12 đơn vị bầu 3, 15 đơn vị bầu 4, 14 đơn vị bầu 5 nghị sỹ), mỗi nghị sỹ đại diện cho 30 nghìn dân hay không quá 1 nghị sỹ cho 20 nghìn dân, nhiệm kỳ 5 năm.  Hạ viện là cơ quan lập pháp chủ yếu, bầu Thủ tướng và Chính phủ.

 

IV. Giới thiệu về kinh tế:

 

          Kinh tế Ai-len trong những năm gần đây đã chuyển đổi đáng kể từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ tập trung xuất khẩu. Tăng trưởng kinh tế Ai-len đạt mức cao bậc nhất thế giới 10% trong giai đoạn 1995 -2000 và 7% 2001-04.  Từ một nước nông nghiệp lạc hậu của châu Âu với mức sống theo đầu người của Ai-len chỉ bằng 60% mức trung bình của châu Âu, GDP/đầu người của Ai-len ngày nay đứng thứ 16 trên thế giới. Do khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu, tăng trưởng của Ai-len giảm dần và năm 2010 ở mức    -1,6%.

Chính sách kinh tế của chính phủ Ai-len tập trung vào xuất khẩu và khuyến khích đầu tư nước ngoài đã đem lại sự tăng trưởng vượt bậc cho Ai-len trong suốt thập kỷ 90. Ai-len xuất khẩu chủ yếu là các mặt hàng chế biến  thực phẩm, đồ uống, quần áo, đồ thủ công, hoá chất, dược, máy điện tử, thiết bị thông tin. Ai-len gia nhập Liên minh tiền tệ châu Âu năm 2002. Hiện nay có hơn 1000 công ty đa quốc gia hoạt động tại Ai-len, hầu hết trong số đó là công ty của Mỹ.

          Trong năm 2010, Ai-len bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu, chịu khủng hoảng nợ công lớn nhất trong lịch sử, đẩy tỉ lệ thâm hụt ngân sách lên mức cao kỷ lục. Tháng 11/2010, Ai-len đã phải chấp nhận gói cứu trợ gần 100 tỉ Euro từ các nước Eurozone.

 

V. Chính sách đối ngoại:

Ai-len theo đuổi chính sách đối ngoại hoà bình và hợp tác hữu nghị với các nước theo luật pháp quốc tế, bảo đảm quyền lợi quốc gia trên cơ sở tôn trọng luật pháp, gìn giữ giá trị dân chủ tự do và tôn trọng nhân quyền.

 

          Vấn đề Bắc Ai-len :

 

          Biên giới hiện tại của 6 vùng Bắc Ai-len thuộc Vương quốc Anh là do các quy định từ thời 1920-21 giữa Ai-len và Vương quốc Anh. Từ 1921 đến 1972 Bắc Ai-len dưới quyền kiểm soát của Anh, các nghị sỹ ở đây được bầu vào Quốc hội Anh, nhưng thực tế các vấn đề địa phương được tự do giải quyết và do đảng liên minh (Unionist Party) chi phối, là đảng được sự ủng hộ của đa số cử tri hướng vào liên minh với Anh. Còn nhóm Cộng đồng theo quốc gia chiếm 1/3 dân số mong muốn thống nhất với Ai-len, thường bị phân biệt đối xử nghiêm trọng. Đầu những năm 1970 sự phục hồi các hoạt động quân sự của Quân đội Cộng hoà Ai-len (IRA) lẻ tẻ nổ ra làm nảy sinh ra các nhóm trung thành quá khích đã làm tình hình an ninh bất ổn định buộc Chính phủ Anh trực tiếp lãnh đạo toàn bộ Bắc Ai-len. Từ 1974 Bắc Ai-len được đặt quyền chỉ đạo trực tiếp của 1 Bộ trưởng (phụ trách Ai-len) thuộc Chính phủ Anh.

          Năm 1998 đánh dấu một mốc lớn trong vấn đề giải quyết đụng độ kéo dài ở Bắc Ai Len, trong quan hệ Anh -  Ai-len và trong nội bộ châu Âu: ngày 10/4/1998 hai chính phủ Anh và Ai len đồng bảo trợ và 8 chính đảng ở Ai-len, dưới sự trung gian của Thượng nghị sỹ Mỹ George Mitchell đã ký Hiệp định hoà bình Belfast, dần dần đi đến chấm dứt cuộc chiến ở Bắc Ai-len. Cuộc trưng cầu dân ý tháng 6/1998 đã bảo đảm Hiệp định trên có hiệu lực thi hành, sau đó đã bầu ra một Nghị viện Bắc Ai-len riêng.

Năm 2002, Nghị viện Bắc Ai-len đã bị Chính phủ trung ương của Anh ngưng hoạt động, liên quan chủ yếu đến các mâu thuẫn trong nội bộ các đảng trong chính phủ địa phương này, mà mấu chốt là thời hạn IRA giải giáp vũ khí. Tháng 5/2006, Anh ra đạo luật mở đường cho Nghị viện Bắc Ai-len hoạt động trở lại. Tháng 5/2007, Nghị viện đã bầu ra chính phủ mới sau 5 năm chịu sự quản lý trực tiếp từ London. Ngày 9/3/2010, Nghị viện Bắc Ai-len thông qua một Hiệp định về việc chấp thuận chuyển giao quyền lực tư pháp và cảnh sát từ London về cho Belfast (giai đoạn cuối cùng của Hiệp định Belfast 1998). Hiệp định này sẽ chấm dứt những mâu thuẫn tại Bắc Ai-len trong nhiều thập niên qua.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM

 

I. CHÍNH TRỊ 

 

     Từ tháng 11/1993, nhân chuyến thăm Việt Nam của Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Ai-len Tom Kitt, Việt Nam đã nêu vấn đề thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Tháng 12/1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Ai-len John Bruton gặp nhau tại ASEM-2 (Bangkok) đã thảo luận về hợp tác đầu tư hai nước và khả năng lập quan hệ ngoại giao.

          Ngày 5/4/1996, quan hệ ngoại giao cấp đại sứ giữa hai nước được thiết lập. Ai-len là nước sau cùng trong EU thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đại sứ quán Ai-len tại Malaysia kiêm nhiệm Việt Nam đến năm 2005. Tháng 11/2005, Ai-len mở Đại sứ quán tại Hà Nội do Đại biện lâm thời đứng đầu. Tháng 2/2007, Đại sứ Ai-len đầu tiên Brendon Lions trình quốc thư lên Chủ tịch nước. Tháng 7/2007, Đại sứ Brendon Lions về nước trước nhiệm kỳ; Đại sứ Maeve Collins sang thay và trình Quốc thư ngày 13/2/2008.

 

     Trao đổi đoàn và tiếp xúc giữa Lãnh đạo hai nước:

     Tháng 3/1999, Ngoại trưởng Ai-len David Andrews gặp Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao Á-Âu tại Berlin; tháng 12/2000, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đã gặp Quốc Vụ khanh Bộ Tài chính Ai-len, Martin Cullen, bên lề Hội nghị Ngoại trưởng Á-Âu tại Viên-chăn. Sau đó, phía Ai-len thường chủ động gặp ta tại các diễn đàn đa phương để thúc đẩy quan hệ.

 

Đoàn Việt Nam thăm Ai-len:

          Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Ai-len từ 9-10/3/2008.

Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải thăm chính thức Ai-len từ 22-24/10/2009.

Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên thăm Ai-len và dự FMM6 tháng 4/2004;  Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải - tháng 8/2005; Bộ trưởng Năng lượng Thái Phụng Nê - năm 2005; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu - tháng 4/2009.

 

Đoàn Ai-len thăm Việt Nam:

Thủ tướng Ai-len dự Hội nghị cấp cao ASEM 5 tại Hà Nội tháng 10/2004 và có cuộc trao đổi với Thủ tướng Phan Văn Khải; Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính Ai-len Brian Cowen – tháng 3/2008; Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Ai-len Tom Kitt - tháng 4/2004; Thứ trưởng Ngoại giao Ai-len - tháng 6/2009; Quốc Vụ khanh Bộ Khoa học, Công nghệ và Đổi mới - tháng 3/2010.

Trong chuyến thăm Ai-len của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tháng 9/2009, Bộ Ngoại giao hai nước đã ký Bản Ghi nhớ về hợp tác, tạo cơ sở tăng cường hợp tác hai nước trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao và thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác khác. Triển khai Bản Ghi nhớ này, tháng 11/2010, Bộ Ngoại giao hai nước đã tiến hành Tham vấn chính trị lần đầu tiên cấp Vụ trưởng Vụ khu vực tại Dublin.

 

II. KINH TẾ

 

1.    Thương mại

Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Ai-len còn khiêm tốn, tổng kim ngạch hai chiều khoảng hơn 100 triệu USD.

 

Số liệu XNK Việt Nam – Ai-len

                                                               Đơn vị: triệu US$. Nguồn: Hải quan VN

 

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

Xuất khẩu

28,40

25.14

38.18

54,90

53,50

39,54

46,105

Nhập khẩu

14.88

22.24

25.45

40,93

44,67

116,08

110,450

Tổng XNK

43.28

47.38

63.63

95,83

98,17

155,62

156,555

 

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam: giầy dép (70%) và đồ dùng trong nhà (11%). Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Ai-len: máy móc thiết bị (42%), sản phẩm trứng sữa (21%), dược phẩm (8%).

 

2.    Đầu tư

Tính đến tháng 11/2010, Ai-len có 6 dự án tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký là 5,64 triệu USD, đứng thứ 70/93 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Các dự án đầu tư của Ai-len tập trung trong lĩnh vực dịch vụ với 3 dự án bao gồm 1 dự án liên quan đến bất động sản tại Tp. Hồ Chí Minh, 2 dự án trong lĩnh vực đầu tư nhà hàng và cho thuê dụng cụ thể thao tại Bình Thuận; chỉ có 1 dự án trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ sản xuất dụng cụ thể dục thể thao, nhưng chiếm tới 87% vốn đăng ký. Các dự án FDI đều theo hình thức 100% vốn nước ngoài.

Hiệp hội kinh doanh Ai-len - Việt Nam được thành lập tháng 10/1995, hiện có 27 hội viên.

Một số công ty Ai-len có mặt tại Việt Nam từ đầu những năm 1990. Có mặt sớm nhất là  EBS International của ngành điện lực Ai-len, tham gia tư vấn cho các dự án tuốc-bin khí hỗn hợp tại Bà Rịa (vốn của WB), nhà máy Phú Mỹ 2 (giai đoạn 1 bằng vốn Ai-len, giai đoạn 2 bằng vốn WB); trường đào tạo tại Công ty điện lực 2 (miền Nam - vốn WB); dự án Nâng cao năng lực thể chế và tổ chức ngành điện Việt Nam (vốn WB và 50.000 USD tài trợ của Chính phủ Ai-len). Tổng số vốn các dự án nói trên khoảng 5 triệu USD. Đến nay, Ai-len có quan hệ hợp tác phát triển mạnh nhất với ngành năng lượng, điện lực của ta. Chuyến thăm Ai-len của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải tháng 8/2005 đã đặt nền móng thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này và có khoảng 200 lãnh đạo và chuyên viên trong lĩnh vực này đã thăm Ai-len.

 

III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN

Trước đây, Ai-len đã cung cấp ODA cho Việt Nam nhưng chỉ dừng ở mức nhỏ, lẻ như khoản viện trợ không hoàn lại trị giá 400.000 USD cho dự án điện khí hoá nông thôn ở Trà Vinh năm 1998.

          Trong cuộc gặp với Thủ tướng Phan Văn Khải bên lề Hội nghị cấp cao ASEM 5 (Hà Nội, tháng 10/2004), Thủ tướng Ai-len Bertie Ahern đã thông báo Chính phủ Ai-len chính thức cấp ODA cho Việt Nam từ năm 2005. Nguồn ODA cam kết cho năm 2005 là 3,5 triệu Euro; năm 2006 tăng lên 7 triệu Euro.

Năm 2007, Chính phủ Ai-len đã thông qua Chiến lược quốc gia Ai-len -Việt Nam (CSP) giai đoạn 2007-2010 với mục tiêu hỗ trợ giảm nghèo, các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương ở Việt Nam. Ngân sách dành cho các chương trình/dự án hợp tác trong giai đoạn này là 85,5 triệu Euro (120 triệu USD) dành cho các chương trình hợp tác phát triển sau: Đồng tài trợ với WB trong chương trình Tín dụng hỗ trợ giảm nghốo (PRSC); Chương trình 135 giai đoạn II; Hỗ trợ các tổ chức phi chính phủ; Phát triển khu vực tư nhân Mekong (MPDF) theo sáng kiến của Công ty Tài chính Quốc tế IFC; Hỗ trợ chuyển đổi kinh tế và phát triển khu vực tư nhân (Celtic Tiger); Tăng cường năng lực của các cơ quan dân cử; Triển khai sáng kiến “Một Liên Hợp Quốc” tại Việt Nam; Hỗ trợ các chương trình, dự án thực hiện tại các địa phương. Để cụ thể hóa các chương trình hợp tác và tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp tác phát triển của Ai-len tại Việt Nam, hai Bên đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác phát triển nhân chuyến thăm chính thức Ai-len của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (tháng 3/2008).

Việt Nam là 1 trong 9 nước nhận viện trợ phát triển của Ai-len (2 nước ở châu Á và 7 nước ở châu Phi). Năm 2005, Ai-len cam kết cung cấp cho Việt Nam 3,5 triệu Euro vốn ODA; năm 2006 tăng lên 7 triệu Euro và năm 2007 tăng lên 120 triệu USD cho giai đoạn 2007 - 2010, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên của Việt Nam là xóa đói giảm nghèo, y tế, nâng cao năng lực thể chế, phát triển khu vực kinh tế tư nhân, cải cách hành chính, ứng phó với biến đổi khí hậu. Ai-len đã lập Văn phòng điều phối ODA tại Hà Nội để điều phối viện trợ ODA ở khu vực Đông Nam Á..

Văn phòng điều phối ODA được thành lập trong Đại sứ quán Ai-len và phụ trách cả quan hệ với Lào và Cam-pu-chia.

 

IV. HỢP TÁC GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO

Hợp tác giáo dục – đào tạo giữa hai nước mới ở giai đoạn khởi đầu.

Ai-len đã cung cấp một số suất đào tạo học bổng sau đại học cho Việt Nam. Tuy nhiên, số học bổng này không nhiều, từ 5-10 suất/năm. Hiện nay, Công ty Phát triển Quốc tế Ai-len (IDI) có kế hoạch tiến hành các thủ tục xin mở một trường đại học chất lượng cao 100% vốn của Ai-len tại Việt Nam

 

V. HIỆP ĐỊNH ĐÃ KÝ GIỮA HAI NƯỚC

Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, ký tháng 3/2008.

 

 Tháng 7/2011

 
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn 
Hiển thị tốt nhất với Internet Explorer. Best viewed with Internet Explorer