THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CỘNG HÒA AI-XƠ-LEN VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM - AI-XƠ-LEN
CỘNG HÒA AI-XƠ-LEN
I. THÔNG TIN CƠ BẢN
Đất nước, con người | |
Tên nước |
Cộng hòa Ai-xơ-len (The Republic of Iceland) |
Thủ đô |
Rây-ki-a-vích ( |
Quốc khánh |
17/6 (ngày sinh của Jon Sigurdsson, lãnh tụ Phong trào đấu tranh đòi quyền tự trị khỏi sự thống trị của Đan Mạch và là ngày tuyên bố chính thức thành lập nước Cộng hòa Ai-xơ-len) |
Vị trí địa lý |
Nằm giữa Đại Tây Dương, gần đường cung Bắc cực và thuộc Bắc Âu. |
Diện tích |
103.000 km2, trong đó diện tích đất bỏ hoang chiếm 54%, đất đóng băng: 12%, đất nham thạch: 11%, đất trồng trọt chiếm 19% |
Khí hậu |
Rất thất thường do ảnh hưởng của dòng hải lưu nóng ở vùng ven biển Tây |
Dân số |
311.058 người (7/2011), chủ yếu là người Ai-xơ-len, trong đó số dân sống ở khu vực Thủ đô chiếm 92%, ở các thành phố khác 8% |
Ngôn ngữ |
Tiếng Ai-xơ-len (gốc Na Uy); ngoại ngữ thông dụng là tiếng Anh và Đức |
Đơn vị tiền tệ |
ISK (cuaron Ai-xơ-len); 1 USD = 139.319 ISK (2010) |
GDP |
11,86 tỷ USD (năm 2010) |
Thu nhập bình quân đầu người |
38.300 USD (năm 2010) |
Tôn giáo |
Trên 96% dân số theo đạo Tin lành dòng Luther |
Lãnh đạo chủ chốt |
- Tổng thống: ông Ô-la-phua Rác-na Gờ-rim-xơn (Ólafur Ragnar Grimsson ), được bầu lại làm Tổng thống nhiệm kỳ 4 (2008-2012) kể từ 1/8/1996 khi ông lần đầu tiên giữ chức này - Thủ tướng: bà Giô-ha-na Xi-gư-đa-rơ-đót-tia (Jóhanna Sigurðardóttir) (Đảng Dân chủ xã hội), nhậm chức từ 1/2/2009 sau khi liên minh Chính phủ giữa Đảng Độc lập và Đảng Dân chủ xã hội tuyên bố giải thể) - Chủ tịch Quốc Hội: bà Át-xơ-ta Rác-hai-đơ Giô-ha-nét-xơ-đót-tia (Ásta Ragnheiður Jóhannesdóttir), nhậm chức từ ngày 14/5/2009 - Ngoại trưởng: ông Uê-xơ Xơ-ca-hây-đin-xơn (Össur Skarphéðinsson) (thành viên Liên minh giữa Đảng Dân chủ xã hội và Phong trào cánh tả xanh). |
|
II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ
- Năm 1261, Na Uy cai trị Ai-xơ-len. Năm 1380, Ai-xơ-len và Na Uy đều dưới quyền cai trị của Đan Mạch.
- Từ 1811-1879, dưới sự lãnh đạo của Jon Sigurdsson đã tiến hành các cuộc đấu tranh chính trị của người dân Ai-xơ-len đòi quyền tự trị.
- Năm 1904, Ai-xơ-len giành được quyền tự trị, nhưng cho đến 1918 vẫn duy trì Liên minh với Đan Mạch dưới sự cai trị của Vua Đan Mạch.
- Ngày 17/6/1944, Ai-xơ-len
chính thức tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Ai-xơ-len.
- Năm 1946, Ai-xơ-len gia nhập Liên hợp quốc. Năm 1949 gia nhập NATO.
-Năm 1951, Ai-xơ-len ký Hiệp ước phòng thủ với Mỹ; theo đó, Mỹ có trách nhiệm bảo vệ an ninh cho Ai-xơ-len vì Ai-xơ-len không có lực lượng vũ trang riêng, chỉ có cảnh sát.
- Năm 1952, Ai-xơ-len gia nhập Hội đồng Bắc Âu.
- Năm 1970, Ai-xơ-len gia nhập Khối mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA) và
1973 ký Hiệp định thương mại với Khối thị trường chung Châu Âu (EEC).
III. THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ, CÁC ĐẢNG PHÁI CHỦ CHỐT TRONG QUỐC HỘI
1. Thể chế chính trị
Ai-xơ-len theo chế độ cộng hòa dân chủ nghị viện, đứng đầu nhà nước là Tổng thống do dân bầu ra thông qua bầu cử phổ thông trực tiế. Nhiệm kỳ của Tổng thống là 4 năm ; tổng thống chỉ mang tính lễ nghi với tư cách là nguyên thủ quốc gia, là biểu tượng của sự đoàn kết của cả nước, không trực tiếp tham gia vào các vấn đề chính trị hàng ngày.
Quyền lập pháp : thuộc về Tổng thống và Quốc hội (Althingi). Từ năm 1987, Quốc hội gồm 63 nghị sỹ được bầu ra trên cơ sở tỷ lệ phiếu bầu mà mỗi đảng giành được trong tuyển cử quốc hội ; tuy nhiên, kể từ năm 1991, Quốc hội chỉ còn một viện (unicameral). Hiến pháp Ai-xơ-len quy định tất cả các công dân Ai-xơ-len từ 18 tuổi trở lên đều có quyền đi bầu cử. 63 nghị sỹ được bầu trực tiếp, trong đó 37 nghị sỹ được bầu ra ở đơn vị bầu cử địa phương, 12 nghị sỹ được bầu ra ở đơn vị bầu cử thành phố, 14 ghế còn lại được phân cho các đảng sao cho tổng số ghế nghị sỹ của mỗi đảng phản ánh đúng tổng số phiếu mà họ giành được trong tuyển cử toàn quốc.
Trong rất nhiều năm, quốc hội Ai-xơ-len gồm đại diện của 5 đảng chính trị và không có đảng nào giành được đa số phiếu tuyệt đối. 5 đảng gồm: độc lập, tiến bộ, Xã hội dân chủ, Liên minh nhân dân và Liên minh phụ nữ. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và các hệ lụy của nó đối với chính trường Ai-xơ-len, đại diện của một số đảng được bổ sung bằng những đảng mới, xuất hiện trong phong trào chống chính phủ do không điều hành hiệu quả nền kinh tế trong thời kỳ khủng hoảng.
Chủ tịch Quốc hội là người được lựa chọn trong các đảng cầm quyền. Các dự luật sau khi được xem xét ở Ủy ban phải được Chính phủ, Tổng thống và Quốc hội thông qua và chỉ khi nào có chữ ký của Tổng thống và một Bộ trưởng trong Chính phủ thì dự luật mới có hiệu lực pháp lý.
Về mặt lý thuyết, Tổng thống có quyền từ chối không ký một dự luật và trong trường hợp này sẽ phải trưng cầu dân ý trong cả nước.
Quyền hành pháp: thuộc về Chính phủ (nội các). Chính phủ quản lý hành chính của cả nước, gồm Thủ tướng và 11 bộ trưởng, 11 bộ (từ năm 2009), kể cả Phủ Tổng thống. Các thành viên Chính phủ do Quốc hội bầu ra.
Quyền tư pháp : thuộc về toà án. Hệ thống toà án của Ai-xơ-len gồm hai cấp: Tòa án cấp thấp do các quan tòa chủ trì. Tòa án tối cao ở
2. Các đảng phái chính trong Quốc hội
Tại Ai-xơ-len có 7 đảng có đại diện trong quốc hội và lần đầu tiên trong lịch sử, Đảng DCXH trở thành chính đảng lớn nhất tại Ai-xơ-len và Liên minh trung tả giữa Đảng DCXH và Đảng Phong trào cánh tả xanh do bà Johanna Sigurdardottir (Lãnh tụ Đảng DCXH) đứng đầu, đã quay trở lại cầm quyền sau 18 năm (đạt 34/63 ghế, tương đương 51,5% số phiếu).
STT |
Đảng |
Chủ tịch |
Một số nét khái quát |
1 |
Đảng Dân chủ xã hội |
(Thủ tướng) |
Thành lập năm 1916, là đảng liên minh chiếm đa số phiếu trong cuộc bầu cử ngày 25/4/2009, đại diện quyền lợi của tầng lớp trung lưu ở thành thị. |
2 |
Đảng phong trào cánh tả xanh |
Thành lập năm 1999, tập trung vào các giá trị xã hội, chủ nghĩa bình quyền cho phụ nữ và bảo vệ môi trường. | |
3 |
Đảng Độc lập |
|
Thành lập năm 1929, đại diện cho giới tư bản tài chính, công nghiệp và ngư nghiệp, thuộc cánh hữu. |
4 |
Đảng Tiến bộ |
Thành lập 1916, là đảng lớn thứ hai, đại diện quyền lợi của cả tầng lớp trung và tiểu chủ và một bộ phận của tầng lớp trung lưu ở thành thị, thuộc cánh hữu. | |
5 |
Đảng Cấp tiến |
Thành lập 1998, theo đường lối trung hữu. | |
6 |
Đảng phong trào dân chủ |
Ông Ástþór Magnússon |
Thành lập năm 2008. |
7 |
Đảng phong trào công dân |
Không có người đứng đầu |
Thành lập năm 2008 trong phong trào chống chính phủ vì khả năng lãnh đạo không hiệu quả trong bối cảnh khủng hoảng tài chính. |
IV. GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ
1. Đặc điểm chung
Ai-xơ-len là nước nhỏ, ít dân, theo mô hình kinh tế Xcăng-đi-na-vi-a (Bắc Âu) với nền kinh tế thị trường xã hội kết hợp các nguyên tắc cấu trúc của nền kinh tế thị trường tự do hóa. Trước năm 2008, Ai-xơ-len luôn duy trì được mức tăng trưởng cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp và phân bổ thu nhập đồng đều. Trong những năm gần đây, nền kinh tế của Ai-xơ-len chuyển đổi mạnh sang lĩnh vực công nghiệp lắp ráp và dịch vụ, phát triển phần mềm, công nghệ sinh học và dịch vụ ngân hàng, du lịch cũng trở thành một thế mạnh của Ai-xơ-len với hình thức du lịch sinh thái và xem cá voi. Với nguồn lực thủy điện và địa nhiệt điện dồi dào, Ai-xơ-len đã thu hút được nguồn đầu tư nước ngoài lớn trong lĩnh vực khai thác nhôm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Ai-xơ-len không có một nền công nghiệp đa dạng. Sản xuất nông nghiệp, nhất là trồng trọt không thuận lợi; do đó, ngoại thương có một vai trò quan trọng sống còn đối với đất nước. Trừ ngành công nghiệp chế biến cá, Ai-xơ-len phải nhập khẩu hầu hết nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp khác cũng như hàng hóa tiêu dùng cho nhu cầu trong nước. Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của Ai-xơ-len tương đương 39% GDP, trong khi đó nhập khẩu chiếm 31% GDP. Do là nước nhỏ nên Ai-xơ-len tập trung trao đổi nội khối và trong khu vực Châu Âu là chủ yếu, với các đối tác thương mại chính là Anh, Đức, Hà Lan, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển và với 3 nước ngoài khu vực Châu Âu là Trung Quốc, Mỹ và Bra-xin.
Năm 2008, nền kinh tế tài chính của Ai-xơ-len bị tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, đánh dấu sự sụp đổ của ba ngân hàng lớn nhất nước này là Glitnir, Landsbank và Kaupthing, buộc phải nhận khoản cứu trợ hơn 10 tỷ USD từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và các quốc gia khác để bình ổn thị trường tài chính và đồng curon Ai-xơ-len. Sau nhiều thập kỷ đạt được tăng trưởng kinh tế cao và là một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới, Ai-xơ-len đã phải chứng kiến mức giảm GDP kỷ lục 6,8% vào năm 2009, tỷ lệ lạm phát hai con số (12%) và tỷ lệ thất nghiệp lên tới gần 10% sau gần 20 năm không có thất nghiệp. Năm 2010, nền kinh tế Ai-xơ-len vẫn trì trệ, với mức GDP suy giảm 3,4% và tỷ lệ thất nghiệp cao (8,3%), tỷ lệ lạm phát ở mức 5,5%.
2. Các ngành kinh tế mũi nhọn
2.1. Ngành đánh bắt và chế biến cá
Chiếm khoảng 40% tổng thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa, chiếm 7% lực lượng lao động, làm việc chủ yếu trong nghề đánh bắt cá và công nghiệp chế biến cá.
2.2. Công nghiệp chế biến
Công nghiệp luyện nhôm là ngành công nghiệp sử dụng năng lượng quan trọng nhất tại Ai-xơ-len và hiện tại đang có 3 nhà máy đang đi vào hoạt động là nhà máy Rio Tinto Alcan, Nordurál và Alcoa.
Công nghiệp sản xuất trang thiết bị cho tàu thủy và công nghiệp chế biến cá phát triển, trước hết phục vụ cho nhu cầu trong nước. Các thiết bị tàu đánh cá do Ai-xơ-len sản xuất được xuất khẩu rộng rãi trên thị trường thế giới bao gồm tàu đánh cá có lưới kéo.
2.3. Ngành thủy điện và địa nhiệt điện
Ai-xơ-len giàu tiềm năng về thủy điện và địa nhiệt điện từ các mỏ nước nóng, đứng thứ 5 trên thế giới về sử dụng điện tính theo đầu người. Ai-xơ-len đã tự cung tự cấp tới 80% nguồn năng lượng quốc gia. Ai-xơ-len phấn đấu trở thành quốc gia không phụ thuộc vào năng lượng tự nhiên (như dầu mỏ, khí đốt; mà chỉ sử dụng năng lượng tái chế) muộn nhất vào năm 2050.
Ngoài ra, địa nhiệt điện từ các mỏ nước nóng còn được sử dụng trong công nghiệp sản xuất phân bón hóa học với sản lượng phân bón hiện nay là 62.000 tấn/năm.
3. Nông nghiệp
Diện tích đất có thể trồng trọt được chiếm 19% diện tích cả nước, nhưng diện tích được canh tác chỉ chiếm 1% diện tích cả nước, chủ yếu là trồng cỏ và chăn nuôi, và hàng năm chỉ canh tác được từ 4-5 tháng. Ai-xơ-len có khoảng 4.700 nông trại cỡ trung bình là 1.200 ha, trong đó 85% là thuộc tư nhân và khoảng 4,8% lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Do yếu tố lịch sử, cho đến năm 1918, mọi quan hệ với thế giới bên ngoài của Ai-xơ-len đều do Đan Mạch quản lý. Sau khi giành được chủ quyền năm 1918, năm 1920 Ai-xơ-len có một Bộ trưởng ở Thủ đô Cô-pen-ha-gen (
Trước đây, Ai-xơ-len đặt trọng tâm vào quan hệ với Mỹ, NATO, Anh và các nước Bắc Âu. Sau khi xảy ra khủng hoảng kinh tế và 3 ngân hàng đổ vỡ, Ai-xơ-len ưu tiên cho quan hệ với các nước láng giềng Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan, tăng cường quan hệ với các nước giúp đỡ về tài chính, trong đó có Nga, quan hệ với Anh tiếp tục phức tạp vì còn vấn đề Icesave[1] tồn tại chưa giải quyết được. Thời gian gần đây, Ai-xơ-len mở rộng và đa dạng hóa quan hệ hơn. Ưu tiên của chính phủ Liên minh cầm quyền trong thời gian tới là sớm gia nhập EU và có thể xem xét gia nhập Khu vực đồng tiền chung Châu Âu trong tương lai gần.
Cũng trong bối cảnh khủng hoảng, quan hệ Ai-xơ-len với Nga được quan tâm hơn, Nga cũng tranh thủ cơ hội này để đẩy mạnh quan hệ với Ai-xơ-len song chưa có tiến triển gì đáng kể gì do Ai-xơ-len còn e ngại vì không muốn làm ảnh hưởng đến quan hệ với Mỹ và NATO. Đối với Châu Á, Ai-xơ-len chú trọng và có nhiều quan hệ với Trung Quốc, Nhật, Ấn Độ.
Chính sách ODA: Ngày 18/2/2011, Ngoại trưởng Ai-xơ-len đã trình lên quốc hội chiến lược hợp tác phát triển (HTPT) giai đoạn 2011-2014 của nước này; đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Ai-xơ-len lên kế hoạch chi tiết cho chiến lược HTPT, đặc biệt trong bối cảnh Ai-xơ-len bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Động thái này của Ai-xơ-len cho thấy nước này bắt đầu muốn khởi động lại sự tham gia của mình vào các hoạt động toàn cầu, nhằm gia tăng hình ảnh sau thời gian bị lãnh quên do cú sốc khủng hoảng tài chính.
QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM
I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ
Việt Nam và Ai-xơ-len thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 5/8/1973. Ai-xơ-len đã tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.
Đại sứ Ai-xơ-len tại Bắc Kinh kiêm nhiệm Việt Nam và Đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch kiêm nhiệm Ai-xơ-len.
Ngày 9/12/2010, Đại sứ mới của Ai-xơ-len tại Bắc Kinh, kiêm nhiệm Việt Nam, bà Kờ-rít-xơ-tin A-na-đót-tia (Kristin A. Arnadottir) đã trình quốc thư lên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết. Quan hệ hai nước hứa hẹn sẽ được lưu tâm nhiều trong nhiệm kỳ của Bà Đại sứ.
II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ
Quan hệ kinh tế hai nước đến nay chưa có gì đáng kể. Việt Nam xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang Ai-xơ-len như giày dép, may mặc, một số hàng hải sản, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ; trong khi Ai-xơ-len xuất chủ yếu là hải sản, sản phẩm thịt và một số máy móc sang Việt Nam. Kim ngạch thương mại giữa hai nước từ năm 2006 đến nay không đáng kể :
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Ai-xơ-len 2006 - 2010
đơn vị: triệu USD
Năm |
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
Xuất khẩu |
3,68 |
4,75 |
7,9 |
6,53 |
7,0 |
Nhập khẩu |
5,67 |
6,39 |
9,0 |
1,74 |
2,56 |
Tổng |
9,35 |
11,14 |
16,9 |
8,27 |
9,56 |
(Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt
Ngày 15/6/1995, Thống đốc Ngân hàng Ai-xơ-len cùng 9 nhà doanh nghiệp vào Việt Nam bàn về hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực hải sản. Hiện nay, Ai-xơ-len đã thông qua Chương trình hợp tác với Việt Nam về thủy sản, trong đó có việc nhận cán bộ Việt Nam sang học tập tại trường Thủy sản của Liên hợp quốc tại Ai-xơ-len, cử chuyên gia sang Việt Nam tổ chức hội thảo, mở lớp tập huấn...
Tháng 4/2002, Thủ tướng Ai-xơ-len Đa-vít Ốt-xơn (David Oddsson) thăm Việt Nam. Hai bên đã ký "Hiệp định tránh đánh thuế hai lần" và "Tuyên bố các lợi ích tương hỗ trong việc tạo thuận lợi cho thương mại giữa Việt Nam và Ai-xơ-len" và nhất trí sẽ xúc tiến thảo luận để ký kết Hiệp định đầu tư song phương giữa hai nước.
Tháng 9/2002, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Ai-xơ-len, hai bên đã ký Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư giữa CHXHCN Việt Nam và Cộng hòa Ai-xơ-len.
Từ năm 2010 đến nay, hai nước đang đàm phán để đi đến ký kết Hiệp định vận tải hàng không.
Trên các diễn đàn đa phương, Ai-xơ-len ủng hộ ta ứng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (HĐBA) LHQ khóa 2008-2009 và đề nghị ta ủng hộ Ai-xơ-len ứng cử vào HĐBA khóa 2009-2010. Tuy nhiên, ta đã cam kết ủng hộ Áo và Thổ Nhĩ Kỳ vào vị trí này trước đó và đã thông báo để bạn thông cảm.
III. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM TẠI AI-XƠ-LEN
Cộng đồng người Việt Nam tại Ai-xơ-len hiện có khoảng 1000 người, phần lớn sống tại thủ đô. Đa số bà con từ các tỉnh miền Bắc sang Ai-xơ-len vào đầu thập niên 70 và 80 vì lý do kinh tế, phần đông đã nhập quốc tịch Ai-xơ-len. Tuy nhiên, do luật Ai-xơ-len không quy định phải bỏ quốc tịch gốc nên ngoài hộ chiếu Ai-xơ-len, kiều bào ta ở đây vẫn sử dụng hộ chiếu Việt Nam.
Trình độ học vấn của người Việt các thế hệ đầu (thế hệ 1) sang Ai-xơ-len nhìn chung thấp, phần đông chỉ tốt nghiệp tiểu học và trung học, không có kỹ năng chuyên môn. Do trình độ chuyên môn và ngôn ngữ địa phương hạn chế nên đa số làm nghề buôn bán nhỏ, mở hàng ăn hoặc làm thợ, công nhân. Phần lớn số người sang đoàn tụ gia đình đã lớn tuổi, không biết tiếng địa phương và sống nhờ vào trợ cấp xã hội của nước sở tại.
Số người Việt thế hệ 2 (ra đi khi còn nhỏ hoặc sinh ra ở nước sở tại) có điều kiện học tập tốt hơn, một số có trình độ đại học và trên đại học, có việc làm ổn định và đời sống khá giả. Một số ít có công ty và kinh doanh tương đối thành công. Hầu hết kiều bào ở Ai-xơ-len làm công ăn lương.
Nhìn chung, cộng đồng người Việt tại Ai-xơ-len có cuộc sống và việc làm ổn định, chịu khó làm ăn, tôn trọng pháp luật, hội nhập khá tốt. Bà con vẫn theo dõi tình hình trong nước và phấn khởi về thành tựu đổi mới, về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Tháng 7 năm 2011
[1] Icesave là tài khoản tiết kiệm online tại một trong ba Ngân hàng lớn của
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail |