Trang chủ     Đăng ký nhận tin    Ý kiến bạn đọc   Liên kết website English 
Thứ hai, ngày 17 tháng 03 năm 2025 Tìm kiếm
 Tìm kiếm nâng cao

Tài liệu cơ bản Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len


I. Thông tin cơ bản:

Tên nước: Liên Hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (gọi tắt là Anh)

United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland

Thủ đô: Luân-đôn (London)

Quốc khánh: Kỷ niệm ngày sinh Nữ hoàng vào một ngày thứ Bảy trong tháng 6 hàng năm

Vị trí địa lý: Quốc đảo nằm ở Tây Âu, nằm giữa Bắc Đại Tây Dương và Biển Bắc

Diện tích: 243.610km2 (diện tích đất liền 241.930 km2; diện tích biển 1.680 km2  )

Khí hậu: Ôn đới

Dân số: 63.742.000 người (2013), đông dân thứ 23 trên thế giới và thứ 3 trong EU (sau Đức và Pháp).

Dân tộc: Anh 83,6%; Scotland 8,6%; xứ Wales 4,9%; Bắc Ai-len 2,9%; da màu 2%; Ấn Độ 1,8%

Ngôn ngữ: Tiếng Anh, ngoài ra có các tiếng địa phương như tiếng Scottish tiếng Welsh, tiếng Ai-len, tiếng Cornish

Đơn vị tiền tệ: Bảng Anh (Pound GBP)

GDP: 2.378 tỷ đô-la (2013), tăng trưởng GDP 1.7% (2013)

Thu nhập bình quân: 37.300 đô-la/người (2013)

Tôn giáo: 71,6% Thiên Chúa giáo, 2,7% Hồi giáo, Ấn Độ giáo 1%

Lãnh đạo chủ chốt:

- Nguyên thủ quốc gia: Nữ hoàng Ê-li-da-bét Đệ nhị (Elizabeth II)  (sinh ngày 21/4/1926, lập gia đình ngày 20/11/1947, lên ngôi ngày 6/2/1952, đăng quang ngày 2/6/1953).

- Thủ tướng: ông Đa-vít Ca-mơ-rôn (David Cameron), (lãnh tụ Đảng Bảo thủ, nhậm chức từ tháng 5/2010).

- Ngoại trưởng: ông Uy-li-am Ha-gơ (William Hague), (Đảng Bảo thủ, nhậm chức từ tháng 5/2010).

- Chủ tịch Thượng viện: bà Huân tước Phờ-răng-sét Đờ-xu-da (Frances D’Souze), (nhậm chức từ ngày 1/9/2011).

- Chủ tịch Hạ viện: ông Dôn Bơ-cau (John Bercow), (Đảng Bảo thủ, nhậm chức từ ngày 18/5/2010). 
 
II. Khái quát lịch sử:

Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai len bao gồm 4 xứ: Anh (England, thủ đô Luân Đôn, dân số 51.446.000 người), Xứ Gan (Wales, thủ đô Cardiff, dân số 2.993.000 người), Xcốt-len (Scotland, thủ đô Edinburgh, dân số 5.169.000 người) và Bắc Ai-len (Northern Ireland, thủ đô Belfast, dân số 1.775.000 người); mỗi xứ có lịch sử và văn hoá riêng. 

Các mốc chính trong lịch sử:

43-409: Bị người La Mã chiếm đóng

450: Người Bắc Âu xâm chiếm và hình thành các Vương quốc Anglo-Saxon

597: Bắt đầu sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo

789: Bắt đầu các cuộc tấn công của người Viking

1017-1042: Triều đại của người Viking gốc Đan Mạch

1066: Người Norman xâm chiếm, du nhập tiếng Pháp vào giới quý tộc Anh

1337: Cuộc chiến tranh kéo dài hàng trăm năm giữa Anh và Pháp bắt đầu

1547: Tin Lành trở thành Quốc đạo ở Anh

1707: Đạo luật hợp nhất Anh và Xcốt-len

1760 - 1830: Cách mạng Công nghiệp ở Anh

1775 - 1783: Thất bại trong cuộc chiến thuộc địa tại Mỹ 

1800: Đạo luật hợp nhất Anh và Bắc Ai-len

1947: Với việc Ấn độ và Pakistan giành độc lập, Đế chế Anh bắt đầu tan vỡ

1973: Anh gia nhập EEC (nay là Liên minh châu Âu-EU)
 
III. Thể chế nhà nước, chế độ chính trị, đảng phái chính trị: 

Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai len là nước quân chủ lập hiến, có hệ thống luật pháp theo mô hình Luật án lệ. Các thể chế chính trị chính:

1. Nữ hoàng: là Nguyên thủ quốc gia, đứng đầu Cơ quan Lập pháp và Hành pháp, Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang và là người đứng đầu Giáo hội Anh. Trên thực tế, quyền lực của Nữ hoàng chỉ có tính chất tượng trưng. Ngoài ra, Nữ hoàng là Nguyên thủ quốc gia của 16/54 nước thuộc Khối Thịnh vượng chung. Năm 2012, Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị kỷ niệm 60 năm trị vì của mình.

2. Cơ quan lập pháp: Quốc hội Anh gồm 3 thành phần: Vua (hay Nữ hoàng), Thượng viện và Hạ viện, và cả ba thành phần chỉ họp chung trong những sự kiện đặc biệt (như khi Nữ hoàng khai mạc Quốc hội mới) và chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Mỗi viện đều có các uỷ ban đảm nhiệm các công việc khác nhau. Hạ viện là cơ quan duy nhất được dân bầu và trên thực tế là cơ quan lập pháp chủ yếu.

- Thượng viện (House of Lords): Còn gọi là Viện Nguyên lão, hiện có 788 nghị sỹ, gồm các Thượng nghĩ sỹ cha truyền con nối có dòng dõi quý tộc và Hoàng gia, các vị giám mục đại diện các nhà thờ chính thống ở Anh và những chính khách có công lao lớn với đất nước. Chủ tịch Thượng viện do các nghị sĩ của Thượng viện bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm và không được tại vị quá 2 nhiệm kỳ. Thượng viện có chức năng chính là thông qua luật và giám sát hoạt động của Chính phủ; thảo luận các vấn đề thời sự, quan trọng của đất nước. Thời gian họp của Thượng viện khoảng 170 ngày trong 1 năm, trong đó 65% thời gian dành cho công tác lập pháp, 40% dành cho công tác giám sát. Chính phủ hiện đang tiến hành cải cách Thượng viện theo hướng xoá bỏ chế độ cha truyền con nối, thay vào đó là cử những người có công với đất nước được Nữ hoàng phong cấp.

- Hạ viện (House of Commons): Là Cơ quan lập pháp gồm 650 nghị sỹ, được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Chủ tịch Hạ viện được bầu trong số các nghị sĩ của Hạ viện sau mỗi cuộc bầu cử Quốc hội. Chức năng cơ bản của Hạ viện là lập pháp, thông qua ngân sách và giám sát các hoạt động của Chính phủ. Để thực hiện các chức năng của mình, Hạ viện thành lập các ủy ban chuyên trách về các vấn đề khác nhau. Hạ viện có 2 loại ủy ban: Ủy ban về các vấn đề chung và Ủy ban chuyên môn. Hạ viện họp 2 kỳ một năm với tổng thời gian khoảng 35 tuần. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Đảng Bảo thủ và Công Đảng thay nhau chiếm đa số trong Hạ Viện. Tuy nhiên, sau bầu cử ngày 6/5/2010, do không có đảng phái nào chiếm đa số tuyệt đối, lần đầu tiên trong 70 năm, Anh có chính phủ liên minh giữa Đảng Bảo thủ và Đảng Dân chủ Tự do. Đảng Bảo thủ chiếm 306 ghế, Công đảng chiếm 258 ghế và Đảng Dân chủ Tự do chiếm 57 ghế tại Hạ viện. Ngoài ra còn các đảng nhỏ khác như Đảng Dân chủ Hợp nhất, và các đảng mang tính chất địa phương như đảng Plaid Cymru ở Xứ Gan, đảng Quốc gia Scốt ở Scotland, đảng Sinn Fein ở Bắc Ai-len... chiếm 28 ghế. Dự kiến, cuộc bầu cử quốc hội tiếp theo sẽ diễn ra vào năm 2015.

3. Cơ quan hành pháp:

- Thủ tướng: do Nữ hoàng bổ nhiệm và được Hạ viện thông qua. Chức năng chính là điều hành nội các, kiến nghị cho Nữ hoàng bổ nhiệm các giám mục và quan toà. Thủ tướng có quyền, được sự đồng ý của Nữ Hoàng, tuyên bố giải tán Quốc hội và định ngày tuyển cử Quốc hội.

- Nội các: Khoảng 22-23 thành viên do Thủ tướng chỉ định và Nữ Hoàng phê duyệt, bao gồm các Bộ trưởng các Bộ. Dưới Bộ trưởng là các Quốc Vụ khanh (tương đương với chức Thứ trưởng của Việt Nam).

IV. Kinh tế:

1. Khái quát:

Kinh tế Anh là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chủ yếu dựa vào khu vực kinh tế tư nhân (chiếm 80% sản lượng và 75% lao động). Trong những năm 80, dưới thời Thủ tướng M. Thatcher, Anh đi đầu các nước phương Tây trong việc tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước.

Hiện Anh là nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới (thứ 2 trong EU sau Đức) với GDP năm 2013 đạt 2.378 tỷ đô-la, GDP trên đầu người năm 2013 đạt 37.300 đô-la. Anh nổi bật là một trong những nền kinh tế toàn cầu hoá nhất thế giới, với chính sách tự do thương mại, chống bảo hộ (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Anh năm 2012 đạt hơn 1100 tỷ USD). Anh là thành viên quan trọng của các tổ chức kinh tế như OECD, WTO... Thành phố Luân Đôn là một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất thế giới cùng với New York và Tokyo.

Trong giai đoạn 1990 – 2007, nền kinh tế đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với các nước EU, trung bình đạt 6,1% (so với Pháp là 4,3% và Đức là 3,9%); thất nghiệp thấp khoảng 5%; lạm phát thấp ở mức 2% và ổn định nhất kể từ năm 1959 cho đến trước khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu 2008-09. Các ngành kinh tế mũi nhọn: ngân hàng, tài chính, bảo hiểm; sản xuất thép, đóng tàu, khai thác than; các ngành công nghiệp hoá chất, điện tử; viễn thông, công nghệ cao; dệt, may mặc. Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, năm 2009, kinh tế Anh giảm đáng kể -4,75%. Hiện kinh tế Anh đang từng bước phục hồi, GDP năm 2013 tăng 1,7%. Tỉ lệ nợ công hiện ở mức cao, chiếm khoảng 70% GDP.

Trong năm 2013, nền kinh tế Anh đã có những dấu hiệu phục hồi rất tích cực. Tốc độ tăng trưởng cao gấp 3 lần so với dự báo (1,7%) và hiện cao nhất trong các nền kinh tế G7. Dự báo đến cuối năm 2014, quy mô kinh tế Anh sẽ bắt đầu vượt qua quy mô nền kinh tế trước khi rơi vào khủng hoảng 6 năm trước đây. Tỷ lệ thất nghiệp giảm từ 8% xuống 5%, tạo 1,3 triệu việc làm trong 2 năm qua. Thâm hụt ngân sách giảm từ 11% năm 2012 xuống còn 6% năm 2013. Mức vay nợ giảm từ 157 tỷ bảng Anh năm 2012, xuống 108 tỷ năm 2013 và giảm xuống 0 vào sau năm 2019. Tuy vậy, Anh vẫn sẽ tiếp tục kéo dài chính sách khắc khổ thêm 5 năm nữa mới có thể biến thâm hụt ngân sách thành thặng dư, bất chấp nền kinh tế đang được cải thiện.

2. Thương mại:

Thương mại của Anh đứng thứ 6 thế giới (sau Mỹ, Trung Quốc, Đức, Pháp và Nhật Bản) với xuất khẩu 475 tỉ USD và nhập khẩu đạt 646 tỉ USD (2013). Thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (xuất khẩu chiếm khoảng 20% GDP); thị trường chủ yếu là EU, chiếm 53% tổng xuất khẩu và 52% tổng nhập khẩu của Anh, sau đó đến Mỹ, Nhật, Trung Quốc. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Anh tính theo đầu người cao hơn Mỹ và Nhật. Hàng xuất chủ yếu gồm sản phẩm dịch vụ, công nghiệp chế tạo, chất đốt, hoá chất, lương thực, đồ uống, thuốc lá trong khi hàng nhập khẩu chủ yếu gồm nguyên nhiên liệu, sản phẩm công nghiệp chế tạo, lương thực.

3. Đầu tư:

Anh nằm trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất thế giới. Tổng đầu tư của Anh năm 2013 là khoảng 300 tỉ USD (14% GDP); đứng thứ 5 thế giới về đầu tư ra nước ngoài, chiếm khoảng 6,5% tổng đẩu tư của thế giới và đứng thứ 2 thế giới về nhận đầu tư nước ngoài, chiếm 11,5% tổng đầu tư thế giới.

4. Hợp tác phát triển:

Bộ Phát triển Quốc tế (DFID) được thành lập năm 1999 chịu trách nhiệm thực hiện chính sách cung cấp viện trợ, chủ yếu tập trung thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế trong đó có sự cam kết của Anh như xoá đói giảm nghèo, tăng cường năng lực chính phủ, quyền con người, phát triển phụ nữ, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, phòng ngừa xung đột, cứu trợ thiên tai. Viện trợ của Anh chủ yếu được thực hiện qua hai kênh: một nửa viện trợ thông qua các tổ chức quốc tế (chủ yếu là các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc, Ủy ban Châu Âu và Ngân hàng Thế giới), nửa còn lại thông qua kênh song phương. Quỹ dành cho viện trợ phát triển liên tục tăng: 2,06 tỷ Bảng Anh cho 1997-1998; 3,04 tỷ cho 1999-2000; 3,3 tỷ cho 2002-2003; 3,7 tỷ cho 2003-2004; 4,6 tỷ 2005-2006; 5 tỷ cho 2007-2008; 6,5 tỷ cho 2009-2010. Phân bổ viện trợ tập trung vào các nước nghèo ở châu Á và tiểu Sahara (khoảng 76%). Tại các nước Trung và Đông Âu, Anh chỉ viện trợ cho các dự án nhỏ chủ yếu theo định hướng và nhằm tác động đến quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

V. Chính sách đối ngoại:

Anh có chính sách đối ngoại mang tính toàn cầu. Anh là Uỷ viên thường trực HĐBA Liên Hợp quốc, thành viên quan trọng của NATO, EU, G8, đứng đầu Khối Thịnh vượng chung gồm 54 nước (chủ yếu là những nước thuộc địa cũ của Anh), và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng khác, có tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế. Anh có quan hệ ngoại giao với 165 nước.

Mục tiêu chính sách đối ngoại của Anh hiện nay:

- Củng cố và phát triển quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ trong đó NATO là hạt nhân quan trọng;

- Phát triển quan hệ với EU nhưng không đối trọng với Mỹ, tăng cường ảnh hưởng và sự lãnh đạo của Anh tại châu Âu, phát huy vai trò cầu nối giữa châu Âu và Mỹ;

- Tăng cường quan hệ với các nền kinh tế với nhóm BRICs; đẩy mạnh hợp tác với các nước vùng Vịnh và Trung Đông;

- Tăng cường sức mạnh Khối Thịnh vượng chung;

- Phát huy vai trò của Liên Hợp quốc trong các hoạt động gìn giữ an ninh và hoà bình, phát triển quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, hợp tác quốc tế trong các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo mang tính toàn cầu, và bảo vệ nhân quyền;

- Đi đầu trong các vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Gần đây, Anh bắt đầu đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN và châu Á, khu vực trước đây Anh chưa chú trọng nhằm củng cố vai trò và vị trí của mình tại các thuộc địa cũ trong khu vực trước ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc và thúc đẩy mở rộng hợp tác kinh tế với khu vực này./.

TÓM TẮT QUAN HỆ VIỆT NAM – LIÊN HIỆP VƯƠNG QUỐC ANH VÀ BẮC-AILEN

I. Quan hệ chính trị

Việt Nam và Anh thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 11/9/1973.

Chuyến thăm chính thức Anh của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tháng 5/2004 và của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An tháng 3/2005 đánh dấu những mốc phát triển quan trọng trong quan hệ hai nước. Tháng 3/2007, lần đầu tiên Thủ tướng Anh Tony Blair đã cử Đặc phái viên, Thượng Nghị sỹ Charles Powell, sang Việt Nam trao thư của Thủ tướng Anh gửi Thủ tướng Việt Nam thể hiện mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ Anh và Việt Nam trong thời gian tới.

Tháng 3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Anh theo lời mời của Thủ tướng Gordon Brown. Trong chuyến thăm, hai Thủ tướng đã ra Tuyên bố chung khẳng định thúc đẩy quan hệ hai nước đi vào chiều sâu, hiệu quả và ổn định theo hướng “Quan hệ Đối tác vì sự phát triển” dựa trên 5 trụ cột chính (1) chính trị-ngoại giao, (2) thương mại-đầu tư, (3) hợp tác phát triển, (4) giáo dục-đào tạo và (5) di cư và chống tội phạm có tổ chức.

Nhân chuyến thăm Anh của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm tháng 9/2010, hai nước ký Tuyên bố chung chính thức nâng cấp quan hệ Việt Nam - Anh lên Đối tác chiến lược với 7 lĩnh vực hợp tác chủ yếu là (1) chính trị-ngoại giao, (2) các vấn đề toàn cầu và khu vực, (3) thương mại-đầu tư, (4) hợp tác phát triển kinh tế-xã hội bền vững, (5) giáo dục-đào tạo, (6) an ninh-quốc phòng và (7) giao lưu nhân dân. Theo Tuyên bố chung, hai bên cùng nhau xây dựng và triển khai Kế hoạch hành động cho từng năm và thiết lập cơ chế Đối thoại An ninh - Quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Ngoại giao định kỳ luân phiên.

Về hợp tác trên diễn đàn quốc tế và khu vực, hai bên đã có sự hơp tác chặt chẽ và hiệu quả trong thời gian Việt Nam là thành viên không thường trực HĐBA/LHQ khóa 2008 – 2009, trong khuôn khổ ASEM và quan hệ hợp tác đối tác ASEAN – EU. Hiện hai bên cùng là thành viên của Hội đồng nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014 – 2016. 

Trong những năm qua, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, nổi bật là:

- Phía ta: Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1993); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (1994); Thủ tướng Phan Văn Khải dự ASEM-2 và thăm Anh (1998); Phó Thủ tướng Vũ Khoan (2003); Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (2003); Chủ tịch nước Trần Đức Lương (5/2004); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (3/2005); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (3/2008); Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng (4/2009); Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chung Lưu (7/2009); Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải (10/2009); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân (3/2010), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm (9/2010), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (12/2011), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (1/2013), Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (4/2013).

- Phía Anh: Công tước Xứ York - Hoàng tử Andrew (1999, 2006, 2008, 2009, 10/2010 và 9/2013); Công chúa Anne (1995 và 2002); Phó Thủ tướng John Prescott (2001 và 2004); Ngoại trưởng Anh (1995); Bộ trưởng Bộ Kinh doanh, Doanh nghiệp và Cải cách thể chế John Hutton (06/2008), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Jack Straw (9/2008); Thị trưởng Khu Tài chính London (7/2009, 3/2011, 9/2012), Bộ trưởng Ngoại giao Anh William Hague (4/2012), Cựu Thủ tướng Anh Tony Blair (10/2012 và tháng 3/2013).

II. Quan hệ hợp tác kinh tế

1. Thương mại:

Quan hệ thương mại Việt Nam và Anh tăng nhanh từ những năm 90 đến nay. Chính sách thương mại của Anh tương đối cởi mở, không theo chủ nghĩa bảo hộ. Anh đã ủng hộ Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Trong các vấn đề tranh chấp thương mại giữa ta và EU (vụ kiện bán phá giá, vụ hải sản nhiễm kháng thể, vấn đề GSP, giày mũ da), Anh thường có lập trường đứng về phía Việt Nam. Anh cũng ủng hộ EU công nhận Việt Nam là nước có Quy chế kinh tế thị trường. 

Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam sang Anh tăng trung bình 20%/năm, trong đó ta liên tục xuất siêu. Những mặt hàng xuất chủ yếu: hải sản, rau quả, hạt điều, cà phê, chè, hạt tiêu, sản phẩm chất dẻo, cao su, túi xách, ví, sản phẩm mây tre, cói thảm, sản phẩm gỗ, hàng dệt may, giày dép, thiếc, máy vi tính và linh kiện điện tử. Kim ngạch thương mại song phương năm 2013 đạt hơn 4,2 tỷ đô-la, tăng khoảng 20% so với năm 2012 và vượt mức kim ngạch định hướng trong Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược.

 

Trao đổi thương mại Việt Nam - Anh  (đơn vị : triệu USD). 

Năm

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Kim ngạch hai chiều

1966

1750

2170

3044

3575

 

4270

Tăng 20%

Xuất khẩu sang Anh

1580

1330

1681

2398

3033

3690

Tăng

10.4%

-15.5%

26%

42%

26%

22%

Nhập khẩu từ Anh

386

420

511

646

542

573

Tăng

62.8%

10%

21%

17%

-17%

5,7%

                                                                                                                         

                                                                                                                          Nguồn: Bộ Công thương

 

Hiện Anh có hàng trăm văn phòng đại diện thương mại thường trú và chi nhánh kinh doanh tại Việt Nam. Năm 1998, Anh thành lập Hiệp hội doanh nghiệp Anh tại Việt Nam (BBGV) nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt Nam và các hoạt động từ thiện tại Việt Nam.

Ngày 19/7/2007, hai bên đã ký thoả thuận thành lập Uỷ ban hỗn hợp về Kinh tế và Thương mại (JETCO) nhằm đề ra các biện pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song phương. Các phiên họp diễn ra luân phiên tại Hà Nội và London và đến nay đã trải qua 7 phiên họp.

Tháng 11/2011, Anh tuyên bố thành lập Hội đồng Kinh doanh Anh – ASEAN nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Anh với các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.

2. Đầu tư:

a. Đầu tư của Anh tại Việt Nam: Các công ty Anh vào Việt Nam sớm (1988-89) nhưng thời gian đầu chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dầu khí (70% tổng đầu tư). Cho đến nay, đầu tư của Anh đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực mới như ngân hàng, tài chính, công nghiệp chế tạo, dịch vụ, may mặc... Nhìn chung các dự án đầu tư của Anh có quy mô vừa và nhỏ, tập trung vào các lĩnh vực khai khoáng với 7 dự án, tổng số vốn đầu tư là 715,6 triệu USD; tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 55 dự án, tổng vốn đăng ký là 714,4 triệu USD, chiếm 32,2% vốn đăng ký; đứng thứ ba là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 548 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 25,3% và các lĩnh vực ngân hàng, dịch vụ tài chính và bảo hiểm.

Tính đến hết tháng 12/2013, Anh có 173 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 2,8 tỷ USD (đứng thứ 3 trong các nước EU, sau Hà Lan và Pháp và đứng thứ 17/101 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam). Ngoài ra, các công ty Anh thuộc British Virgin Island đã đầu tư vào Việt Nam với số vốn khoảng 15 tỷ đô-la.

Hai bên đã ra Tuyên bố chung về phát triển mô hình Hợp tác Công – Tư  (PPP) tại Việt Nam (3/2010) và ký Bản ghi nhớ về thỏa thuận hợp tác PPP (1/2013).

Các công ty lớn có mặt tại Việt Nam: Công ty dầu khí BP, nhôm BHP Billiton, động cơ máy bay Rolls-Royce, viễn thông Vodafone, vận tải P&O, hoá chất dược GlaxoSmithKline, các ngân hàng HSBC, Standard Chartered, bảo hiểm Prudential. Ngân hàng Standard Chartered Bank và Ngân hàng HSBC là hai ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên được thành lập tại Việt Nam.

b. Đầu tư của Việt Nam sang Anh: Tính đến nay, Việt Nam đã có 7 dự án đầu tư sang Anh với tổng vốn đầu tư là 3 triệu USD.

III. Hợp tác phát triển

Năm 1994, Chính phủ Anh bắt đầu chính thức cung cấp ODA cho Việt Nam, bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại về hỗ trợ kỹ thuật và tín dụng ưu đãi.

Giai đoạn 1994-1998, Anh đã viện trợ không hoàn lại khoảng 24 triệu Euro cho 20 dự án hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực giao thông, vận tải, năng lượng, dầu khí, xây dựng, giáo dục… Cho đến nay, các dự án này đã được thực hiện xong, đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế-xã hội của ta trong các lĩnh vực trên.

Tháng 8/1999, Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID) đã thành lập Văn phòng Hỗ trợ Chương trình Việt Nam (PSO) tại Hà Nội, nay gọi là Văn phòng DFID Việt Nam.

Từ năm 1999 cho đến nay, DFID chuyển từ tiếp cận theo dự án sang tiếp cận theo chương trình ngành hoặc lĩnh vực trong khuôn khổ phát triển toàn diện (CDF), sử dụng hình thức đồng tài trợ hoặc uỷ thác để tham gia tài trợ cho các chương trình/dự án có ưu tiên cao tại Việt Nam nhằm giảm chi phí giao dịch cho Việt Nam và khuyến khích sự phối hợp giữa các nhà tài trợ với Việt Nam. DFID chủ trương tăng viện trợ không hoàn lại cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Ngân sách viện trợ phát triển Chính phủ Anh dành cho Việt Nam năm tài khóa 2003/2004 là 26 triệu bảng Anh, năm 2004-2005 là 37 triệu bảng, năm 2005/2006 là 60 triệu bảng.

Ngày 19/9/2006, hai bên ký Thỏa thuận về Quan hệ đối tác phát triển giữa hai nước giai đoạn 2006-2015, theo đó Chính phủ Anh viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 250 triệu Bảng Anh trong giai đoạn 2006-2010 (bình quân 50 triệu Bảng/năm) với khoảng 70% ngân sách hỗ trợ cho các Chương trình liên quan đến giảm nghèo của Việt Nam (PRSC). Phần còn lại dành cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, nước sạch và vệ sinh nông thôn, phòng chống tham nhũng. Với việc hai nước ký Thoả thuận Quan hệ đối tác phát triển giữa Việt Nam và Anh giai đoạn 2006-2015, Anh là nhà tài trợ ODA song phương đầu tiên và đến nay cũng là duy nhất ký Thỏa thuận hợp tác phát triển dài hạn trong 10 năm với Việt Nam. Thoả thuận có các mục tiêu tổng quát sau:

- Tăng trưởng có lợi cho giảm nghèo và đạt được các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam.

- Tăng cường công tác quản lý tài chính và trách nhiệm giải trình của nhà nước trước người dân, chống tham nhũng nhằm bảo đảm các nguồn vốn công ích được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.

- Tôn trọng các thoả ước nhân quyền về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.

Ngoài cung cấp ODA theo các chương trình, DFID còn cung cấp các khoản viện trợ phi dự án nhằm giúp Việt Nam thanh toán các khoản nợ quốc tế để tập trung nguồn lực tài chính cho việc giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế xã hội trong nước. Ngày 22/2/2005, Chính phủ Anh thông qua sáng kiến giảm nợ đa phương, tuyên bố sẽ trả nợ thay cho Chính phủ Việt Nam 10% nợ đến hạn của các khoản vay Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) thuộc WB trong thời gian 2005-2015 (khoảng 90 triệu USD), tạo điều kiện cho Việt Nam tập trung nguồn lực hơn nữa cho Chương trình PRSC đang được thực hiện thành công. Ngày 22/11/2007, DFID đã thông báo việc Chính phủ Anh viện trợ không hoàn lại 100 triệu Bảng Anh giai đoạn 2007-2011 cho Chương trình PRSC với phương thức chuyển trực tiếp cho Chính phủ Việt Nam. Tháng 10/2008, Chính phủ đã phê duyệt Thoả thuận giữa Việt Nam và Anh về việc Chính phủ Anh tài trợ cho PRSC 7-10 (2008-2011) với tổng kinh phí là 80 triệu Bảng Anh.

Tháng 8/2010, Việt Nam và Anh đã họp đánh giá giữa kỳ thực hiện Thỏa thuận về Quan hệ đối tác phát triển giai đoạn 2006-2015.

Tháng 5/2011, hai bên ký Văn bản điều chỉnh bổ sung Thỏa thuận Đối tác phát triển Việt Nam – Anh giai đoạn 2011-2016, theo đó Anh cam kết viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 70 triệu bảng Anh trong giai đoạn 2011 – 2015, mức độ cho năm 2016 sẽ được xác định sau. Viện trợ của Anh được ưu tiên tập trung hỗ trợ giúp Việt Nam đạt được các mục tiêu Thiên niên kỷ về Giáo dục tiểu học, HIV/AIDS; kết hợp các Chương trình vệ sinh môi trường, tăng trưởng có lợi cho tất cả các đối tượng; quản trị nhà nước và biến đổi khí hậu. Tháng 6/2013, tại cuộc họp kiểm điểm việc thực hiện Thỏa thuận Đối tác phát triển Việt Nam – Anh, phía Anh đã thông báo nâng mức viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam giai đoạn 2011- 2016 lên mức 74 triệu bảng Anh.

Từ cuối năm 2011 đến nay, Anh thay Thụy Điển giữ vai trò điều phối các nhà tài trợ trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng tại Việt Nam.

IV. Quan hệ Văn hóa - Giáo dục

1. Giáo dục: Trong những năm qua, hợp tác giữa Việt Nam và Anh trong lĩnh vực giáo dục đào tạo phát triển tích cực. Hàng năm, Chính phủ Anh dành từ 25-30 suất học bổng cho học sinh Việt Nam. Hiện có khoảng 8000 học sinh, sinh viên Việt Nam đang theo học tại các trường của Anh và có 32 chương trình liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục Việt Nam và Anh.

Hội đồng Anh (BC) là một tổ chức được Chính phủ Anh uỷ quyền đối với các hoạt động về văn hóa và giáo dục tại Việt Nam; có mặt tại Việt Nam từ cuối 1993 với trụ sở ở Hà Nội và TP HCM. Hội đồng Anh thường xuyên thực hiện các hoạt động giảng dạy tiếng Anh, phương pháp giảng dạy và triển khai một số dự án hợp tác giáo dục, hội thảo về giáo dục đại học và phát triển kỹ năng với Bộ GD-ĐT và một số tỉnh, thành phố.

Việt Nam và Anh ký Hiệp định cấp chính phủ về hợp tác giáo dục – đào tạo (3/2008).
Trường Đại học Apollo tại Hà Nội khai trương tháng 9/2008 và Đại học Anh tại Hà Nội khai trương tháng 10/2010.

Tháng 3/2010, nhân chuyến thăm Anh của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, hai bên đã ký Tuyên bố chung trong đó Chính phủ Anh và hệ thống các trường đại học hàng đầu của Anh cam kết ủng hộ Việt Nam thành lập trường đại học công lập đẳng cấp quốc tế Việt – Anh tại Đà Nẵng. Nhân chuyến thăm Anh của TBT Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã ký Bản Ghi nhớ về các biện pháp thúc đẩy thành lập Đại học Quốc tế Việt - Anh tại Đà Nẵng. Tháng 10/2013, hai bên nhất trí thành lập Viện Nghiên cứu và Đào tạo Việt – Anh trong ĐH Đà Nẵng.

2. Văn hóa: Hiện nay, Anh đang tích cực hỗ trợ Việt Nam phát triển ngành công nghiệp sáng tạo thông qua việc cùng UNESCO đồng tài trợ cho dự án hỗ trợ Việt Nam xây dựng khung chính sách, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam. Hội đồng Anh thành lập Quỹ hỗ trợ nghệ thuật nhằm phát triển và nuôi dưỡng các tài năng nghệ thuật tại Việt Nam; hỗ trợ và hợp tác với Việt Nam đào tạo các kỹ năng quản lý và tổ chức festival văn hóa, nghệ thuật, tổ chức giải thưởng Doanh nhân sáng tạo trẻ quốc tế, tổ chức các hội nghị cùng nhiều hoạt động giao lưu về điện ảnh, thể thao.

Năm 2013 vừa qua, Việt Nam và Anh phối hợp tổ chức nhiều hoạt động quảng bá văn hoá, du lịch nhân dịp hai nước kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao.

V. Các lĩnh vực khác

1. Quốc phòng: Tháng 9/1996, Anh cử tuỳ viên quốc phòng đầu tiên tại Việt Nam thường trú tại Malaysia (từ tháng 3/2008 thường trú tại Brunei và từ tháng 5/2011 thường trú tại Singapore). Tháng 11/2013, Anh cử Tùy viên quốc phòng thường trú tại Việt Nam. Hiện Việt Nam đang nghiên cứu khả năng mở Phòng Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Anh.

Từ năm 1996 đến nay, hai bên đã trao đổi một số đoàn quân sự. Về phía Việt Nam thăm Anh có Thứ trưởng Quốc phòng (9/2001, 9/2003 và 11/2011), Phó Tư lệnh các Quân chủng Phòng không-Không quân, Hải quân (1996, 1998, 1999); Phó Tổng Tham mưu trưởng (2004). Phía Anh sang thăm ta có Học viện nghiên cứu quốc phòng (1999, 2001, 2003), Tổng Tham mưu trưởng quân đội Anh (3/2004) và Thứ trưởng BQP (1/2013).

Hai bên đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác Quốc phòng (11/2011) tạo cơ sở thúc đẩy hợp tác hai nước trên các lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, chuyển giao công nghệ, đào tạo; Thỏa thuận về việc thành lập Nhóm công tác song phương về quốc phòng (1/2013); Thỏa thuận về hợp tác Thủy đạc (1/2013).

2. An ninh: Những năm gần đây, Bộ Nội vụ Anh và Bộ Công an Việt Nam tăng cường trao đổi các nhiều đoàn thăm viếng cấp cao. Quốc Vụ khanh Bộ Nội vụ Anh thăm Việt Nam (10/2004, 11/2009). Phía Việt Nam thăm Anh có Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh (9/2004, 9/2006) và nhiều đoàn cấp Thứ trưởng (2011, 2012). Hai bên hợp tác trao đổi thông tin trong lĩnh vực phòng chống tội phạm, khủng bố, nhập cư bất hợp pháp, chương trình đào tạo tiếng Anh cho Bộ Công an Việt Nam.

Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về các vấn đề di trú (10/2004), Hiệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù (9/2008), Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự (1/2009), Bản ghi nhớ hợp tác về trao đổi thông tin xuất nhập cảnh (1/2013), Bản ghi nhớ về hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm nghiêm trọng và hợp tác trong các vấn đề cùng quan tâm (2/2014).

3. Quan hệ lãnh sự - du lịch: Khách du lịch Anh vào Việt Nam tăng mạnh những năm gần đây, từ 70.000 người năm 2004 lên hơn 184.000 người năm 2013.

VI. Cộng đồng người Việt Nam

Cộng đồng người Việt Nam tại Anh hình thành từ đầu thập kỷ 40 thế kỷ XX; hiện có khoảng 40.000 người, nhìn chung sống hoà nhập, ổn định, 90% sống tập trung tại các thành phố lớn: London 20.000 người, Birmingham 10.000 người, Manchester 8.000 người... 

VII. Các Hiệp định hai bên đã ký kết

Việt Nam và Anh đã ký hầu hết các hiệp định khung như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định về Bảo hộ và Xúc tiến Đầu tư…

VIII. Địa chỉ liên hệ

- Địa chỉ Đại sứ quán Việt Nam tại Anh: 12-14 Victoria Road, London W8 5RD

Tel: + 44(0) 20 79371912, Fax: +44(0) 20 75653853

Email: vanphong@vietnamembassy.org.uk

- Địa chỉ Đại sứ quán Anh tại Việt Nam: 31 Hai Bà Trưng, Hà Nội

Tel: + 84 43 9360500, Fax: + 84 43 9360561

Website: https://www.gov.uk/government/world/vietnam

      

 
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn 
Hiển thị tốt nhất với Internet Explorer. Best viewed with Internet Explorer

EMC Đã kết nối EMC