Thông tin cơ bản về Cộng hòa Áo và quan hệ Việt Nam - Áo

THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CỘNG HOÀ ÁO

I. Thông tin cơ bản:

Tên nước: Cộng hòa Áo (Republic of Austria);

Thủ đô: Vienna (1,6 triệu người);

Quốc khánh: Ngày 26 tháng 10 (Ngày thông qua đạo luật quy định nền trung lập vĩnh viễn của Cộng hoà Áo);

Vị trí địa lý: Phía nam Trung Âu, Bắc giáp Đức và Séc, Nam giáp Italia và Slovenia, Đông giáp Slovakia và Hungary, Tây giáp Thụy Sỹ và Lichtenstein;

Khí hậu: Ôn hòa;

Diện tích: 83.870 km2;

Dân số: 8,468,570 triệu người;

Dân tộc: Áo (91,1%), Nam Tư cũ (4%) và các cộng đồng dân tộc khác;

Ngôn ngữ: Tiếng Đức (Ngôn ngữ chính thức), ngoài ra còn có các cộng đồng nói tiếng Thổ (2,3%), tiếng Croatia (2,2%);

Tôn giáo: Thiên Chúa Giáo (73,6%), Tin lành (4,7%), Đạo Hồi (4,2%);

Hành chính: 9 bang (Trong đó Viên vừa là thủ đô vừa là một bang);

Lãnh đạo chủ chốt: Tổng thống Liên bang Heinz Fischer; Chủ tịch Hội đồng Liên bang Michael Lampel; Chủ tịch Quốc hội Barbara Prammer; Thủ tướng Werner Faymann (nhiệm kỳ từ 12/2008); Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Sebastian Kurz.

Đơn vị tiền tệ: Euro;

GDP (năm 2013): GDP là 436,16 tỷ USD, tăng 0,4 % so với năm 2012.

GDP/ đầu người: 47.078 USD/năm;

Tỷ lệ lạm phát: 1,5% (tháng 11/2013)

Tỷ lệ thất nghiệp: 7,6% (2013)

II. Khái quát lịch sử 

- Trước Công nguyên đến năm 1918: người La Mã đến chiếm các vùng phía Nam Sông Đa Nuýp, khai phá và tập hợp thêm một số vùng mới tạo thành nước Áo. Thời kỳ này, kinh tế, văn hóa phát triển nhanh, đường xá được xây dựng, một số nghề thủ công được phổ biến rộng rãi, các luật lệ ra đời, các khu đô thị dần dần được hình thành. Sau đó người Đức di cư sang vùng này, trở thành một cộng đồng lớn mạnh. Các dòng họ Đức thay nhau cai trị Áo: Dòng họ Babenberger cai trị 270 năm, Dòng họ Habsburger cai trị 600 năm (cho đến năm 1916). Sau thất bại trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất (1914 - 1918) Áo gặp nhiều khó khăn về kinh tế (sản xuất công nghiệp đình trệ, thất nghiệp cao, lạm phát ở mức kỷ lục). Tháng 11/1918, Cộng hòa Áo chính thức được thành lập.

- Giai đoạn 1918 - 1945: chính trị nội bộ Áo gặp khủng hoảng do mâu thuẫn gay gắt giữa hai đảng cầm quyền (Đảng Dân chủ và Đảng Thiên chúa giáo). Tháng 3/1934, Đảng Quốc dân tuyên bố đòi sáp nhập Áo vào Đức. Tháng 3/1938, Phát xít Đức tấn công Áo. Từ đó đến hết Chiến tranh Thế giới thứ II, Áo bị Phát xít Đức chiếm đóng hoàn toàn.

- Giai đoạn 1945 đến nay: Tháng 04/1945, Áo được giải phóng khỏi Phát xít Đức và bị chia thành 4 vùng do Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp cai quản. Ngày 15/5/1955, bốn nước đồng minh ký Hoà ước với Áo, còn gọi là Hiệp ước quốc gia (Staatsvertrag) và rút khỏi Áo. Ngày 26/10/1955, Áo ban hành đạo luật quy định về nền trung lập vĩnh viễn của Cộng hoà Áo và ngày này trở thành ngày Quốc khánh của Cộng hoà Áo. 

III. Thể chế chính trị

Áo theo chế độ cộng hòa nghị viện với mô hình nhà nước có cấu trúc cấp Chính quyền Liên bang, Chính quyền bang và Chính quyền xã.

1. Tổng thống

Là nguyên thủ quốc gia, trực tiếp do dân bầu với nhiệm kỳ 6 năm và có thể được bầu lại một lần ngay sau khi kết thúc nhiệm kỳ đầu. Tổng thống là tổng tư lệnh quân đội quốc gia, có quyền bổ nhiệm hoặc bãi miễn Nội các, các quan chức dân sự và đại diện của Áo ở nước ngoài, giải tán Quốc hội và ký các đạo luật hợp hiến. Tổng thống Áo hiện nay là ông Heinz Fischer (tái đắc cử vào ngày 25/4/2010)  

2. Cơ quan lập pháp bao gồm Hội đồng Liên bang (Thượng viện) và Quốc hội Liên bang (Hạ viện)

- Hội đồng Liên bang (Bundesrat): có 62 đại biểu, là cơ quan đại diện cho lợi ích của các bang tại Liên bang, gồm các nghị sỹ được Hội đồng bang của các bang cử ra theo tỷ lệ thuận với dân số của từng bang (Tối thiểu là 3, tối đa là 12 nghị sỹ). Theo quy định của Hiến pháp, Hội đồng Liên bang có quyền phủ quyết các đạo luật đã được Quốc hội thông qua trong thời hạn 8 tuần. Tuy nhiên, trong thực tế nếu Quốc hội đưa ra “Nghị quyết kiên quyết” (Beharrungsbeschluss), thì việc việc phủ quyết không còn hiệu lực. Hội đồng liên bang chỉ có quyền phủ quyết tuyệt đối (Veto) khi các đạo luật mới hạn chế các quyền hạn của các Bang đã được ghi trong Hiến pháp.

- Quốc hội Liên bang (Nationalrat): là cơ quan đại diện của nhân dân, do dân trực tiếp bầu ra với nhiệm kỳ 5 năm, có nhiệm vụ ban hành các văn bản luật, giám sát việc thực thi pháp luật và là diễn đàn chính trị của các đảng phái. Chỉ có các đảng đạt được từ 4 % số phiếu bầu trong bầu cử Quốc hội Liên bang mới được có mặt trong Quốc hội Liên bang. Tổng số ghế trong Quốc hội Liên bang (nhiệm kỳ 24) hiện nay là 183, với 5 đảng phái: Đảng Dân chủ xã hội (57 ghế), Đảng Nhân dân (51 ghế), Đảng Tự do (34 ghế), Đảng vì Tương lai nước Áo (21 ghế) và Đảng Xanh (20 ghế). Chủ tịch Quốc hội Liên bang hiện nay là bà Barbara Prammer (Đảng Dân chủ xã hội).

3. Chính phủ Liên bang: Thủ tướng thường là chủ tịch đảng đạt được nhiều phiếu nhất trong kỳ bầu cử Quốc hội Liên bang. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ Liên bang, do Quốc hội chỉ định và được Tổng thống bổ nhiệm. Các thành viên của nội các được Tổng thống bổ nhiệm theo đề nghị của Thủ tướng. Thủ tướng điều hành công việc của Nội các, nhưng không có quyền chỉ thị cho các bộ trưởng. Nội các có thẩm quyền quyết định các dự luật trước khi trình Quốc hội. Vì Nội các áp dụng nguyên tắc nhất trí, nên tất cả các dự luật đưa ra đều phải có tất cả chữ ký của các bộ trưởng. Do vậy, bộ trưởng nào cũng có quyền phủ quyết và không thể quyết định được điều gì nếu nó đi ngược lại ý muốn của bộ trưởng khác.

Do luật bầu cử của Áo rất phức tạp nên hiếm khi có đảng nào có thể tự thành lập chính phủ mà thường phải liên minh với đảng khác. Trong một liên minh, Thủ tướng chia quyền điều phối nội các cho Phó Thủ tướng, thường là chủ tịch của đảng liên minh trong chính phủ. Số lượng bộ trưởng trong mỗi nội các khác nhau. Việc phân ghế bộ trưởng tùy thuộc vào kết quả đàm phán giữa các đảng liên minh. Chính phủ hiện nay là chính phủ liên minh giữa Đảng Dân chủ xã hội và Đảng Nhân dân lãnh đạo.

- Bầu cử: Tất cả các thiết chế chính trị phù hợp với Hiến pháp đều được thiết lập thông qua bầu cử trực tiếp (Quốc hội Liên bang, Tổng thống và Quốc hội Bang) hoặc gián tiếp (Hội đồng Liên bang). Mọi công dân Áo đủ 16 tuổi đều có quyền tham gia bầu cử trên cơ sở bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Ngoài ra, còn có các công cụ của nền dân chủ trực tiếp như trưng cầu dân ý và sáng kiến công dân, cho phép công dân tham gia trực tiếp vào quá trình quyết định các vấn đề chính trị.

Kết quả kỳ bầu cử Quốc hội Liên bang gần đây nhất (ngày 29/9/2013): Đảng Xã hội (27,1%), Đảng Nhân dân (23,8%), Đảng Tự do (21,4%), Đảng Xanh (11,5%).

- Nền hành chính cấp bang: Áo có 9 bang, trong đó Viên vừa là thủ đô, vừa là một bang. Đứng đầu mỗi bang là Thống đốc bang. Trong những vấn đề liên quan đến bang, vai trò của Thống đốc bang cũng tương tự như vị trí của Thủ tướng Liên bang đối với các bộ trưởng của mình - tức là không phải quan hệ của cấp trên với cấp dưới. Đối với những vấn đề quan trọng của bang, chính quyền bang quyết định như là một tổ chức mang tính tập thể. Đối với những vấn đề liên quan gián tiếp đến quản lý của Liên bang, Thống đốc bang hành động theo thẩm quyền hành chính, một mặt phải thực hiện các chỉ thị của Bộ trưởng Liên bang, mặt khác được quyền ra chỉ thị cho các thành viên thuộc chính quyền bang thực hiện.

IV. Giới thiệu về kinh tế

- Áo là nước công nghiệp phát triển với phúc lợi xã hội cao. Năm 2012 tăng trưởng kinh tế đạt 0,8%, GDP đạt 418,484 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người 47.078 USD/năm, lạm phát 2,3%. Áo có thế mạnh về các ngành công nghiệp như luyện kim, cơ khí chế tạo, chế biến gỗ, điện tử, dệt, may mặc, sứ thuỷ tinh (chiếm 30,4%) và các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm (chiếm 67,8%).   

- Kinh tế của Áo phụ thuộc rất lớn vào ngoại thương, chủ yếu giao thương với các nước Châu Âu, đặc biệt với Đức.

- Tỷ lệ thất nghiệp: 7,3% (3/2013).

- Kể từ đầu 2009 nền kinh tế Áo gặp một số khó khăn do giá nhiên liệu và lương thực tăng cao, đồng EURO mạnh lên và bị ảnh hưởng bởi sự suy giảm của thị trường tài chính quốc tế.

- Về thương mại, Áo chủ yếu xuất khẩu máy móc, động cơ mô tơ, hoá chất, thép, giấy, thực phẩm… nhập khẩu máy móc, hoá chất, hàng kim khí, xăng dầu, thực phẩm… Thị trường chính của Áo bao gồm Đức 31,3%, Italia 8,7%, Mỹ 5,9%, Thụy Sĩ 5,2%, Pháp 4,2%, Anh 4%.

- Một số công ty và tập đoàn lớn của Áo: Tập đoàn hóa chất OMV, Tập đoàn Bưu chính viễn thông Áo, Tập đoàn BML, Tập đoàn Siemens Áo...

V. Chính sách đối ngoại:

Ngay sau khi Hiệp ước quốc gia được ký kết và dành lại hoàn toàn chủ quyền và độc lập của minh, Áo đã được kết nạp vào LHQ (tháng 12/1955) và đã có những đóng góp tích cực cho hoạt động của tổ chức này. Áo được bầu vào Uỷ ban nhân quyền của LHQ cũng như nhiều Uỷ ban khác và có lần giữ cương vị chủ tịch luân phiên HĐBA. Năm 1956, Áo gia nhập Hội đồng Châu Âu và Công ước Châu Âu về quyền con người.  

Trong những năm 80, Áo điều chính chính sách đối ngoại tập trung vào Châu Âu. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, từ vị trí bên rìa Tây Âu, Áo trở thành trung tâm của một Châu Âu mới rộng lớn hơn với nhiều đối tác khác nhau. Điều đó được thể hiện qua nỗ lực của Chính phủ Áo gia nhập Cộng đồng Châu Âu và thi hành chính sách đối ngoại với các nước láng giềng Balkan. Trong xung đột Nam Tư đầu những năm 90, Áo và Đức là hai nước đi đầu trong việc sớm công nhận Croatia và Slovenia. Hiện nay, Áo có quan hệ kinh tế, chính trị rất chặt chẽ với các quốc gia thuộc Nam Tư cũ cũng như với các nước Trung - Đông Âu.

Năm 1995, Áo gia nhập đội quân gìn giữ hoà bình của NATO và hoạt động cùng với các quốc gia khác tại Kosovo theo nghị quyết của LHQ. Áo tuyên bố chính sách đối ngoại mới của mình là chính sách an ninh và phòng thủ để cùng nhau xây dựng Cộng đồng hoà bình và Cộng đồng phòng thủ ở Châu Âu. Ngoài ra, Áo vẫn coi chính sách của LHQ là cột mốc quan trọng trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của Cộng đồng Châu Âu.

Những trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Áo hiện nay:

• Chính sách Châu Âu tích cực (Chính sách đối ngoại và an ninh chung, Chính sách với các nước láng giềng của EU, Đối tác khu vực với các nước Trung - Đông Âu)

• Triển vọng Châu Âu về các nước Đông Nam Âu/ Balkan

• Tăng cường vai trò của LHQ, OSCE và Hội đồng Châu Âu

• Đối thoại xuyên Đại Tây dương giữa Hoa Kỳ và EU

• Quan hệ đối tác chiến lược EU - Nga

• Củng cố quan hệ với các nước Châu Phi, Mỹ La tinh và Châu Á

• Gìn giữ hoà bình và ngăn chặn xung đột, đối tác NATO trong gìn giữ hoà bình ở Balkan, Trung Cận Đông

• Nhân quyền và an ninh con người

• Giải trừ vũ khí hạt nhân và tuân thủ Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân

• Cấm sử dụng mìn sát thương và bom chùm

• Chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế

• Đấu tranh chống tội phạm ma tuý và các loại tội phạm khác

• Bảo vệ môi trường và đấu tranh chống biến đổi khí hậu

• Chống đói nghèo

• Đối thoại giữa các nền văn minh, văn hoá và tôn giáo

Từ những năm 90, Áo tăng cường chính sách hợp tác với các nước Châu Á (nhất là Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc). Ngoài ra, Áo duy trì quan hệ tốt với các nước Trung Đông (10 % thương mại của Áo là với các nước Trung Đông).

Hiện nay, Áo có quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới và tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế. Áo là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ các nhiệm kỳ 1973 – 1974, 1991 - 1992 và 2009 - 2010. Áo được bầu vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2011 – 2014 và Hội đồng chấp hành UNESCO nhiệm kỳ 2011 – 2015./.

 

QUAN HỆ VIỆT NAM - ÁO


 I. Quan hệ chính trị

- Ngày 01/12/1972, khi chiến tranh ở Việt Nam còn chưa kết thúc, Áo là một trong những nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

- Tháng 7/1991, Việt Nam mở Đại sứ quán thường trú tại Áo.

- Ngày 21/9/1998, Áo mở Đại sứ quán thường trú tại Việt Nam.

Trao đổi đoàn cấp cao:

Trong những năm qua, mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hệ hai nước không ngừng phát triển, thể hiện qua những chuyến thăm cấp cao.

Phía Áo: Tổng thống Liên bang Thomas Klestil tháng 3/1995; Chủ tịch Quốc hội Liên bang Heinz Fischer (nay là Tổng thống Liên bang) tháng 4/1997; Thủ tướng Liên bang Wolfgang Schuessel dự Hội nghị ASEM 5 tại Hà Nội tháng 10/2004; Chủ tịch Hội đồng Liên bang Sissy Roth-Halvax tháng 5/2006; Tổng thống Áo tháng 5/2012.

Phía Việt Nam: Thủ tướng Phan Văn Khải thăm chính thức tháng 4/1998; Phó Chủ tịch Quốc hội Mai Thúc Lân tháng 5/2002; Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa tháng 9/2005; Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 6/2008; Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tháng 2/2009; Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên tháng 4/2010; Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Gia Khiêm tháng 6/2011; Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tháng 12/2011.

Năm 2009, Áo và Việt Nam cùng là Uỷ viên không thường trực HĐBA LHQ. Trong thời gian đó, ta và Áo đã phối hợp ủng hộ nhau trên một số vấn đề quan tâm chung, đặc biệt trong việc tổ chức các phiên thảo luận mở "Trẻ em trong xung đột vũ trang", "Phụ nữ, hoà bình và an ninh" nhân dịp ta làm Chủ tịch luân phiên HĐBA LHQ trong các tháng 7/2008 và 10/2009 và "Bảo vệ thường dân trong xung đột vũ trang" nhân dịp Áo là Chủ tịch HĐBA LHQ tháng 11/2009.

II. Quan hệ kinh tế

1. Thương mại

- Thương mại song phương giữa hai nước những năm gần đây phát triển tích cực, đặc biệt là trong hai năm qua. Các mặt hàng ta xuất sang Áo là điện thoại các loại và linh kiện, giầy dép, gỗ và sản phẩm gỗ, hàng dệt, may, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác... và nhập từ Áo dược phẩm, máy móc, thiết bị, sắt thép và sản phẩm từ sắt thép, giấy, thức ăn gia súc và nguyên liệu. Năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Áo đạt 1,222 tỷ USD tăng hơn 195% so với năm 2011.

 

Năm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Xuất nhập khẩu

 

Trị giá

Tăng (%)

Trị giá

Tăng (%)

Trị giá

Tăng (%)

2007

111,94

14,8%

63,772

13,5%

175,71

14%

2008

108,73

-2,8%

92,63

46%

201,36

14,5%

2009

103,38

-4,6%

153,43

66%

256,82

27%

2010

144,02

39%

123,39

-19%

267,41

4%

2011

461,54

320%

165,36

134%

626,89

234%

2012

1065

321%

157,46

95%

1222

195%

                                                                                                    (Đơn vị: triệu USD)

Tính đến hết 11 tháng đầu năm 2013, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt 1,958 tỷ USD tăng 85,6%, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Áo đạt 1,783 tỷ USD tăng 95,8%, nhập khẩu của Việt Nam từ Áo đạt 174 triệu USD, tăng 20,9%.

2. Đầu tư

- Tính đến Quý I/2014, Áo có 21 dự án còn hiệu lực đang đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký là 79,17 triệu USD, đứng thứ 41 trong tổng số 101 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đạt khoảng 2,5 triệu USD, thấp hơn mức trung bình của cả nước. Các dự án của Áo thuộc loại vừa và nhỏ, tập trung chủ yếu trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo, dịch vụ lưu trú và ăn uống, nghệ thuật và giải trí.

- Năm 1995, hai nước thoả thuận thành lập Tổ công tác hỗn hợp nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư. Tháng 8/2010, hai bên đã chính thức nâng cấp lên thành Uỷ ban hỗn hợp liên Chính phủ cấp Thứ trưởng.

c. Hợp tác phát triển

- Viện trợ phát triển (ODA) của Áo thực chất là một hình thức tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, theo đó các nước nhận ODA phải mua thiết bị của Áo thông qua một công ty Áo. Áo chủ yếu cung cấp cho ta tín dụng có mức độ ưu đãi không cao. Tại Biên bản thảo thuận Việt - Áo về tăng cường hợp tác thương mại và tài chính năm 1998, phía Áo cam kết yếu tố không hoàn lại cho các dự án Áo tài trợ đạt ít nhất 35%. Tín dụng ưu đãi của Áo đang được sử dụng để thực hiện các dự án trong các lĩnh vực như giao thông đường sắt, trang thiết bị y tế, phòng cháy chữa cháy, đào tạo nghề (khoảng 19 dự án với tổng vốn khoảng gần 200 triệu EURO). Nhìn chung, các dự án ODA Áo triển khai tương đối nhanh do đã xác định nhà cung cấp từ khâu chuẩn bị dự án.

- Viện trợ không hoàn lại của Áo mới chỉ tập trung vào hai dự án (Dự án "Phục hồi máy kéo" trị giá 1,06 triệu USD, nhằm mục đích khôi phục 1.500 máy kéo được nhập từ Áo năm 1980 và Dự án "Nghiên cứu phát triển công nghệ sau thu hoạch lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long" trị giá 575.000 EURO). Cả hai dự án này đã kết thúc năm 1997.

Cam kết ODA của Áo tại Hội nghị các nhà tài trợ (CG)

Năm

2009

2010

2011

2012

2013

So sánh 2012/2011 (%)

So sánh

2012/2013

Cam kết của Áo

5,86

123,57

26,6

152,51

18

473,35

-88%

                                                                                                Đơn vị: triệu USD

III. Quan hệ văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, du lịch

- Quan hệ hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Áo trong thời gian qua có những bước phát triển tích cực. Năm 2006, Nhạc viện Hà Nội phối hợp với Nhà hát Opera Áo tổ chức dàn dựng và biểu diễn tại Hà Nội vở opera “Cây sáo thần” của Nhà soạn nhạc vĩ đại người Áo Mozart. Nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Áo tháng 5/2012, hai nước đã ký Bản Ghi nhớ về hợp tác văn hóa, tạo cơ sở để tăng cường hợp tác trong lĩnh vực này.

- Về giáo dục, thông qua Chương trình hợp tác ASEA-UNINET, hàng năm Áo cung cấp cho Việt Nam khoảng 20 học bổng đào tạo sau đại học. Ngoài ra, Đại sứ quán Áo tại Hà Nội hỗ trợ một số tài liệu, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập cho các trường đại học có đào tạo tiếng Đức tại Hà Nội. Hiện nay có 7 trường Đại học ở Việt Nam đã ký thoả thuận hợp tác với các trường Đại học của Áo. Năm 2008, Áo đã dành 600.000 EURO cung cấp học bổng cho gần 100 sinh viên và nghiên cứu sinh Việt Nam sang học tập tại Áo, trong đó hơn một nửa là nữ. Các ngành học của sinh viên Việt Nam là Công nghệ sinh học - thực phẩm, quản lý du lịch, khoa học tự nhiên và âm nhạc.

- Về khoa học – công nghệ, hai bên đã xúc tiến một số dự án hợp tác giữa một số trường đại học của Áo với trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Huế. Bộ Khoa học và Công nghệ đã thiết lập quan hệ hợp tác chính thức với một số bộ ngành có tiềm năng hợp tác của Áo, như Bộ Khoa học và Nghiên cứu, Bộ Giao thông, Sáng kiến và Công nghệ, Hội đồng chính sách KHCN Quốc gia, Viện Công nghệ Áo.

- Về du lịch, số lượng khách du lịch Áo vào Việt Nam chưa nhiều. Nguyên nhân chính là vì người Áo còn ít biết về Việt Nam. Hiện Phòng Kinh tế, Đại sứ quán Áo (WKO) đang phối hợp cùng với phía Việt Nam để tổ chức các hội chợ, hội thảo quảng bá du lịch ở Việt Nam.

IV. Cộng đồng người Việt Nam tại Áo

Cộng đồng người Việt Nam ở Áo hiện có khoảng 5.000 – 5.500 người, hình thành từ sau năm 1975 và phát triển những năm 1990. Nhìn chung, cộng đồng người Việt tại Áo tập trung vào kinh doanh, làm ăn chăm chỉ, không vi phạm pháp luật nước sở tại và được chính quyền sở tại đánh giá cao.

V. Các hiệp định đã ký giữa hai nước:

- 1980: Hiệp định thương mại và thanh toán  

- 1994: Hiệp định xử lý nợ của Việt Nam đối với Áo

- 1995: Hiệp định vận tải hàng không Việt Nam – Áo

- 1995: Thỏa thuận thành lập nhóm hỗn hợp để thúc đẩy  quan hệ thương mại  

- 1995: Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư  

- 1995: Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực đường sắt  

- 1995: Hiệp định hợp tác y tế  

- 2008: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần 

- 2008: Hiệp định công nhận văn bằng đại học của nhau 

- 2011: Bản ghi nhớ hợp tác về Khoa học – Công nghệ 

- 2012: Bản ghi nhớ hợp tác về Công nghiệp, thương mại và năng lượng 

- 2012: Bản ghi nhớ hợp tác về Du lịch 

VI. Địa chỉ Đại sứ quán, lãnh sự quán hai nước

1. Đại sứ quán Việt Nam tại Viên, Áo

Địa chỉ: Felix Mottl – Strasse A-1190 Vienna

Điện thoại: + 43 1 3680755

Fax: + 43 1 3680754

Email: office@vietnamembassy.at

2. Đại sứ quán Cộng hòa Áo tại Hà Nội, Việt Nam

Địa chỉ: tòa nhà "Prime Center", 53 Quang Trung, Tầng 8, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.

Điện thoại: 04 39433050

Fax: 04 39433055

Email: hanoi-ob@bmeia.gv.at

3. Lãnh sự quán Cộng hòa Áo tại TP. Hồ Chí Minh

Địa chỉ: 27A, Nguyễn Đình Chiểu, phường Đa Kao, Quận 1, TP. HCM./.
 
                                                                                                            Tháng 4/2014

 

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn