Trang chủ     Đăng ký nhận tin    Ý kiến bạn đọc   Liên kết website English 
Sunday, ngày 22 tháng 12 năm 2024 Tìm kiếm
 Tìm kiếm nâng cao

Tài liệu cơ bản Cộng hoà Liên bang Đức và quan hệ Việt Nam - Đức


I. Thông tin cơ bản

- Tên nước: Cộng hoà Liên bang Đức (Federal Republic of Germany)

- Thủ đô: Berlin

- Quốc kỳ: 3 sọc ngang đen, đỏ, vàng

Vị trí địa lý: Trung Âu, Đức nằm giữa lòng châu Âu và được bao bọc bởi 9 nước láng giềng: Pháp, Áo, Thuỵ Sĩ, Séc, Ba Lan, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ và Luxemburg. Tổng biên giới dài 3757km.

- Diện tích: 357.021 km2

- Khí hậu: vùng khí hậu đại dương/ lục địa ôn hoà với thời tiết thường xuyên thay đổi và chủ yếu là gió Tây. Có các mùa xuân, hạ, thu, đông, rất khác nhau về nhiệt độ và mức độ mưa mù, tuyết sương.

- Tài nguyên thiên nhiên: than ở vùng Ruhr (Ruhrgebiet)

- Thu nhập bình quân đầu người: 43.952 USD1

- Đơn vị tiền tệ: Euro

- GDP 2013: 3.593,238 tỷ USD2  (đứng thứ 4 thế giới)

- Tăng trưởng kinh tế năm 2013: 0,5 %, (dự kiến 1,4 % năm 2014), tỷ lệ lạm phát năm 2013: 1,5% (2012: 2%).

- Dân số: 80,22 triệu. Khoảng 6,17 triệu người nước ngoài sinh sống ở Đức (7,7% dân số), trong đó có khoảng 130.000 người Việt Nam. Khoảng 15 triệu người có nguồn gốc nhập cư (18,9%)

- Dân tộc: người Đức là chủ yếu.

- Tôn giáo: 24,7 triệu người theo đạo Công giáo – La mã; 24,32 triệu theo Tin lành; 31,15 triệu người theo các tôn giáo khác hoặc không3.

- Ngôn ngữ: tiếng Đức

- Ngày Quốc khánh: 3/10 (ngày thống nhất nước Đức)

- Cơ cấu hành chính: CHLB Đức là nhà nước liên bang. Liên bang cũng như 16 Bang, trong đó có 3 Bang - thành phố (Berlin, Hamburg, Bremen/Bremehaven) đều có các thẩm quyền riêng. Cấp liên bang có thẩm quyền về chính sách đối ngoại, chính sách Châu Âu, quốc phòng, tư pháp, lao động, xã hội, thuế và y tế. Các Bang có thẩm quyền về trật tự an toàn xã hội, giáo dục phổ thông, đại học cũng như hành chính và cấp địa phương

- Lãnh đạo chủ chốt4: Tổng thống Joachim Gauck5 (không đảng phái), Thủ tướng Angela Merkel (CDU)6; Ngoại trưởng Frank – Walter Steinmeiner (SPD)7; Chủ tịch Quốc hội Liên bang Nobert Lammert (CDU)8.

II. Khái quát lịch sử

Sau chiến tranh Pháp - Phổ (1870 – 1871), năm 1871, Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck (1815 – 1898) đã thực hiện việc thống nhất các nhà nước cắt cứ Đức thành Đế chế Đức. Ngày 18/01/1871, Vua Phổ Wilhelm Đệ nhất được phong Hoàng đế.

Thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918), tháng 11/1918, Hoàng đế Wihelm Đệ Nhị tuyên bố thoái vị. Chính thể Đức chuyển sang chế độ Cộng hòa (Cộng hòa Weimar). Tuy nhiên, do các vấn đề bất đồng nội bộ và kinh tế khó khăn, nền dân chủ mới chớm đã kết thúc khi A. Hitler lên nắm quyền vào tháng 01/1933 và thực hiện chế độ độc tài chuyên chế, khủng bố những người bất đồng chính kiến và tàn sát có hệ thống người Do Thái ở châu Âu. 

Sau khi thua trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945, Đức và thủ đô Berlin bị chia thành 4 khu vực quân quản do quân đồng minh Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp quản lý.  

- Ngày 7/9/1949, ở phần đất quân quản của đồng minh phương Tây đã tổ chức tuyển cử, bầu Nghị viện Tây Đức và tuyên bố thành lập nước CHLB Đức.

- Ngày 7/10/1949, khu vực quân quản phía đông Đức và phía đông Thủ đô Berlin tiến hành bầu cử, nước CHDC Đức được thành lập.

- Ngày 13/8/1961, bức tường Berlin được dựng lên chia cắt phía Đông và Tây của thành phố.

- Ngày 9/11/1989, chính quyền Đông Đức tuyên bố mở cửa bức tường Berlin, khởi đầu sự sụp đổ của Nhà nước Đông Đức.

- Ngày 3/10/1990, CHDC Đức sát nhập vào CHLB Đức thành nước Đức ngày nay.

- Ngày 24/6/1991, Quốc hội CHLB Đức đã bỏ phiếu chọn Berlin làm Thủ đô của nước Đức thống nhất.

III. Thể chế nhà nước, chế độ chính trị, đảng phái chính trị, Lãnh đạo chủ chốt (thuộc đảng phái nào)

1. Quốc hội Liên bang (Hạ viện):

Hệ thống bầu cử của Đức tương đối phức tạp, quy định mỗi đảng tranh cử phải giành được ít nhất 5% số phiếu bầu mới được tham gia Quốc hội Liên bang (QHLB). QHLB có các nhiệm vụ:

- Bầu và có thể bãi nhiệm Thủ tướng Liên bang bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm.

- Lập pháp: Từ năm 1949 đã có khoảng hơn 10.000 dự án luật được đưa ra QHLB và hơn 6.600 luật được thông qua, đa số là các luật sửa đổi.

- Kiểm tra giám sát hoạt động của Chính phủ. Phần công việc kiểm tra của QHLB được công bố trước công luận là do phe đối lập trong QH thực hiện.

Quốc hội Liên bang nhiệm kỳ thứ 18 (2013 – 2017) có 630 đại biểu.

2. Hội đồng Liên bang (Thượng viện):

Hội đồng Liên bang là cơ quan đại diện của 16 bang, không phải do tổng tuyển cử bầu ra mà do Quốc hội các bang cử với số lượng tỉ lệ thuận với dân số của từng bang. Thủ hiến các bang thay nhau làm Chủ tịch Hội đồng Liên bang với thời hạn 1 năm. Chủ tịch Hội đồng liên bang thực hiện các công việc của Tổng thống khi Tổng thống vắng mặt.

3. Tổng thống Liên bang:

Tổng thống là đại diện cho CHLB Đức với tư cách là Nguyên thủ quốc gia. Tổng thống đại diện đất nước đối với quốc tế và bổ nhiệm các thành viên Chính phủ, thẩm phán và quan chức cao cấp.

Nhiệm kỳ của Tổng thống là 5 năm và có thể được bầu lại thêm một lần nữa.

4. Thủ tướng Liên bang và Chính phủ:

Thủ tướng là thành viên duy nhất của Chính phủ Liên bang được bầu. Hiến pháp trao cho Thủ tướng quyền tự chọn bộ trưởng là người đứng đầu các cơ quan chính trị quan trọng nhất. Ngoài ra, Thủ tướng quyết định số lượng các bộ và ấn định thẩm quyền của các bộ.

Hệ thống bầu cử của Đức khiến cho từng đảng riêng rẽ rất khó một mình đứng ra thành lập chính phủ. Thông thường, các đảng phải liên minh với nhau. Từ cuộc bầu cử QHLB đầu tiên năm 1949 đến nay, đã có 22 Chính phủ liên minh ở Đức. Chính phủ của Đức nhiệm kỳ 2013 – 2017 là Chính phủ đại Liên minh (CDU/CSU/SPD) gồm 15 Bộ và một cơ quan ngang Bộ là Phủ Thủ tướng.

5. Toà án Hiến pháp Liên bang:

Toà án Hiến pháp Liên bang (TAHPLB) có trụ sở tại thành phố Karlsruhe, gồm 2 toà, mỗi toà có 8 thẩm phán gồm một nửa do QHLB và một nửa do Hội đồng Liên bang bầu. Nhiệm kỳ của mỗi thẩm phán là 12 năm và không được bầu lại. TAHPLB là một cơ quan đặc trưng của nền dân chủ Đức sau chiến tranh. Theo Hiến pháp, TAHPLB có quyền huỷ bỏ những đạo luật nếu xác định rằng những đạo luật đó vi phạm Hiến pháp. 

6. Các đảng chính trị:

Ở Đức có khoảng 37 đảng đăng ký hoạt động, nhưng chỉ có một số đảng lớn có ghế trong QHLB và thay nhau cầm quyền. Các chính đảng lớn gồm CDU/CSU (Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo/ Xã hội Thiên chúa giáo), SPD (Xã hội Dân chủ), FDP (Tự do Dân chủ), đảng Xanh và đảng Cánh tả (trước đây là đảng XHCN thống nhất – SED).

a. Đảng Xã hội Dân chủ (SPD): là đảng cánh tả lớn nhất và cũng là chính đảng lâu đời nhất ở Đức được thành lập năm 1863. Sau khi bị cấm trong thời kỳ chủ nghĩa phát xít, đảng được tái lập năm 1945. Với chương trình Godesberg năm 1959, đảng chính thức không còn là một đảng công nhân mà là một đảng quần chúng. Niềm tin của đảng là “Tự do, Công bằng và Đoàn kết”.

b. Đảng Cánh tả: là đảng kế thừa của Đảng XHCN thống nhất Đức (SED), là đảng lãnh đạo CHDC Đức trước đây. Đảng dựa trên lý tưởng XHCN, ủng hộ phong trào cánh tả và phần nào phong trào dân chủ xã hội.

c. Liên minh dân chủ Thiên chúa giáo và xã hội Thiên chúa giáo (CDU/CSU): Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU): là đảng cánh hữu lớn nhất ở Đức, thành lập năm 1945 và có khuynh hướng bảo thủ. Đảng Liên minh xã hội Thiên chúa giáo (CSU) có đường lối bảo thủ tương tự nhưng chỉ hoạt động tại Bang Bayern. Hai đảng này cùng nhau tạo thành một đảng phái chung trong Quốc hội Liên bang Đức, thường được gọi chung là “liên minh” hay “các đảng liên minh”.

d. Đảng Dân chủ Tự do (FDP): thành lập năm 1948. Đảng FDP ủng hộ quyền tự do cá nhân, đặc biệt trong các vấn đề kinh tế và quyền công dân. FDP là đối tác Liên minh nhỏ, nhưng tham gia Chính phủ liên bang nhiều nhiệm kỳ. Tại cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang tháng 9/2013, đảng FDP đã thất bại thảm hại (4,3%) và lần đầu tiên vắng mặt trong Quốc hội kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2.

e. Đảng Xanh: ra đời từ các phong trào xã hội mới cuối thập kỷ 1970 như phong trào phụ nữ, phong trào hòa bình và phong trào sinh thái. Năm 1983, Đảng được bầu vào Quốc hội Liên bang lần đầu tiên. Năm 1990, đảng Xanh hoà nhập với phong trào nhân dân Đông Đức (Liên minh 90) trở thành Liên minh 90/ Xanh. Đảng Xanh là lực lượng đang nổi lên, ngày càng thu hút nhiều sự ủng hộ do nhu cầu cấp thiết về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

f. Các đảng phái khác: một số đảng khác có khuynh hướng cực hữu như Người Cộng hoà (REP), Liên minh Nhân dân Đức (DVU), Dân chủ quốc gia Đức (NPD), v.v…đều là các đảng nhỏ, chưa từng có ai đại diện trong Quốc hội Liên bang trong 60 năm qua, nhưng có thời điểm có chân trong quốc hội một số bang. Các đảng này phát triển khá mạnh ngay sau khi tái thống nhất nước Đức do lợi dụng tâm lý bất bình của người dân với chính sách nhập cư của Chính phủ, song hiện nay có xu hướng suy yếu.

IV. Kinh tế:

1. Mô hình kinh tế: Luật cơ bản của Đức không quy định một trật tự kinh tế nhất định nào, nhưng loại trừ nền kinh tế thị trường thuần tuý và tự do bằng cách gắn chặt vào đó nguyên tắc “Kinh tế thị trường xã hội” với phương châm “ít nhà nước như có thể, nhiều nhà nước như cần thiết”. Phương châm cơ bản là dựa trên nguyên tắc tự do của một nền kinh tế thị trường, bổ sung bằng những biện pháp cân bằng xã hội, nghĩa là nhà nước có một loạt các biện pháp phòng ngừa nguy cơ. Mô hình kinh tế thị trường xã hội của Đức rất chú trọng phúc lợi xã hội và dân sinh.

2. Cơ cấu kinh tế: Đức là một trong những nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới, đứng thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản về GDP, đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu (năm 2012 xuất 1381 tỷ Euro, +4,5%). Các ngành công nghiệp chủ yếu là: chế tạo xe hơi, chế tạo máy móc, thiết bị, công nghiệp hoá chất, công nghiệp kỹ thuật điện và điện tử. Từ năm 1975 Đức là thành viên của G8.

Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đã có tác động đến kinh tế Đức mà thiệt hại nặng nề nhất là các ngành định hướng xuất khẩu chế tạo máy và thiết bị cũng như ngành sản xuất ô tô. Tuy nhiên, Đức là một trong những quốc gia phục hồi nhanh nhất sau khủng hoảng kinh tế. Năm 2012 tăng trưởng kinh tế Đức đạt 0,6%, năm 2013 - 0,4 %, tuy thấp song đây vẫn là mức tăng trưởng cao hàng đầu trong nhóm các nền kinh tế phát triển. Nhiều ngành công nghiệp như máy móc, ô tô, điện tử, hoá chất,…đều đạt tăng trưởng sản lượng và xuất khẩu cao.

- Công nghiệp: Các ngành công nghiệp chủ yếu là: Chế tạo xe hơi, chế tạo máy móc, thiết bị, công nghiệp hoá chất, công nghiệp kỹ thuật điện và điện tử.

Đức có nhiều tập đoàn đa quốc gia tầm cỡ thế giới như BASF, Robert Bosch GmbH, E.On, Deutsche Telekom, Siemens AG, Deusche Bank, v.v… Tuy nhiên, xương sống của kinh tế Đức là các công ty có quy mô vừa và nhỏ (thu hút khoảng 20 triệu lao động).

- Nông nghiệp: Phần lớn diện tích nước Đức dùng cho nông nghiệp, nhưng chỉ có 2-3% dân số Đức làm việc trong ngành này. Vùng bờ biển phía Bắc chuyên nuôi bò sữa và ngựa. Vùng chân núi Alps tập trung chăn nuôi gia cầm, lợn, bò và cừu. Dải đất màu mỡ dọc theo sườn nam vùng đất thấp là nơi gieo trồng lúa mì, lúa mạch, ngũ cốc, củ cải đường, cây ăn trái, khoai tây và nho. Đức nằm trong số các nước sản xuất sữa, chế phẩm sữa và thịt nhiều nhất thế giới. Nông nghiệp ở Đức được điều tiết theo chính sách nông nghiệp của EU.

- Dịch vụ: Phát triển mạnh trong những năm gần đây và hiện đóng góp nhiều nhất vào GDP. Frankfurt là trung tâm tài chính lớn nhất của Đức và cũng là một trong những trung tâm tài chính hàng đầu thế giới.

Đức là một trong những nước có mạng lưới giao thông dày nhất thế giới (đứng thứ 2 sau Mỹ), bao gồm 11.980 km đường cao tốc và 41.386 km đường liên tỉnh. Bên cạnh tài chính ngân hàng, Frankfurt cũng là trung tâm trung chuyển hàng không hàng đầu thế giới (năm 2011 sân bay Frankfurt chuyên chở 53 triệu lượt khách). Hệ thống giao thông đường thuỷ và đường biển có vị trí rất quan trọng đối với một nền kinh tế hướng xuất khẩu như Đức. Hamburg là cảng biển lớn nhất Đức và cũng là một trong 3 cảng lớn nhất thế giới.

3. Thương mại:

Xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Đức, thu hút khoảng 25% lực lượng lao động. Đức là nước xuất khẩu lớn thứ 2 thế giới (sau Trung Quốc) với giá trị năm 2013 đạt mức kỷ lục trên 1000 tỷ Euro, đồng thời là thị trường nhập khẩu lớn thứ 3 thế giới (sau Mỹ, Trung Quốc) với quy mô khoảng 930 tỷ USD. Hàng chế tạo và công nghệ chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu, bao gồm máy móc, hàng điện tử, ôtô, các sản  phẩm hoá chất, thực phẩm, hàng dệt may, dụng cụ quang học và điện năng. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, phương tiện vận chuyển, hoá chất. Đối tác thương mại quan trọng nhất của Đức là EU, Mỹ, Trung Quốc. Thị trường EU chiếm gần 60% xuất khẩu. Xuất khẩu của Đức ra ngoài EU, đặc biệt là các thị trường mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ có xu hướng tăng nhanh.

Đức ủng hộ tự do hoá thương mại. Bên cạnh tập trung vào thị trường EU và Mỹ, Đức cũng tìm cách mở rộng các thị trường đang nổi lên ở châu Á- TBD, Mỹ Latinh và Châu Phi.

4. Đầu tư:

Đức có môi trường đầu tư hấp dẫn nhờ sở hữu nhiều công nghệ, know-how, có vị trí địa- chính trị ở trung tâm châu Âu, cơ sở hạ tầng chất lượng cao, pháp luật hoàn thiện, nguồn nhân lực chất lượng cao. Do chi phí lao động ngày càng cao, nên Đức có lợi thế thu hút đầu tư trong những ngành sử dụng công nghệ và vốn, mất dần lợi thế trong các ngành sử dụng lao động. Những cải cách về thuế doanh nghiệp ngang bằng với mức bình quân thế giới tạo thuận lợi nhất định cho giảm chi phí đầu tư ở Đức, góp phần giúp Đức duy trì hấp dẫn đầu tư.

Đức cũng là nước đầu tư lớn nắm nhiều công nghệ nguồn. Hàng năm, Đức đầu tư ra nước ngoài khoảng 30 – 45 tỷ Euro trong đó chủ yếu tập trung vào các nước EU và Trung Quốc.

5. Chính sách ODA - Hợp tác phát triển:

Từ năm 1998, Đức đã bắt đầu tập trung cung cấp ODA cho một số nước trọng tâm. Đối tác nhận ODA của Đức gồm khoảng 70 nước, được  phân làm hai loại là các nước trọng tâm và các nước đối tác phát triển. Ngân sách ODA hàng năm của Đức khoảng 3-4 tỷ Euro cho nhiều lĩnh vực khác nhau. Hiện nay, viện trợ phát triển của Đức chiếm 0,28% GDP. Đức cam kết dành 0,33% GDP cho viện trợ phát triển và đang phấn đấu đạt mục tiêu năm 0,7% GDP vào năm 2015 cho viện trợ phát triển theo mục tiêu đề ra của LHQ.

V. Khoa học, giáo dục và nghiên cứu

Đức là quốc gia nổi tiếng với truyền thống giáo dục lâu đời, quê hương của những nhà học giả và các nhà khoa học nổi tiếng như Humboldt, Einstein, Roentgen, Max Planck... Đầu thế kỷ 20, một phần ba tổng số giải thưởng Nobel đã được trao cho các nhà khoa học Đức.

Hệ thống đại học ở Đức phát triển rộng khắp với 372 trường đại học rải đều trên khắp lãnh thổ. Hiện có 2 triệu thanh niên đang học tập nghiên cứu tại Đức. Các trường đại học tư nhân ở Đức chỉ đóng một vai trò khiêm tốn. 97% sinh viên theo học các trường công với mức phí rẻ hơn so với các trường tư. Đức còn là một địa chỉ du học hấp dẫn với nhiều sinh viên nước ngoài với khoảng 246.000 em (trong đó có khoảng 4.000 sinh viên Việt Nam). Cơ quan trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD) đảm nhận thực hiện các sáng kiến hợp tác đào tạo với nước ngoài, hỗ trợ trao đổi sinh viên và các nhà khoa học trên khắp thế giới.

Nghiên cứu đỉnh cao (Exzellenzforschung) được thực hiện tại hàng trăm viện khoa học ở Đức, được tập hợp lại trong các tổ chức như Cộng đồng Hemholtz, Hội Fraunhof hay Hội Leibniz. 80 Viện Max Planck là nơi tập trung những nhà khoa học giỏi nhất của Đức. Kể từ khi thành lập năm 1948, đã có 16 nhà khoa học của Viện Max Planck được trao giải Nobel. Năm 2005, giám đốc của Viện là Theodor Hänsch được trao giải Nobel Vật lý.

Tháng 6/2011, Chính phủ Đức quyết định đóng cửa toàn bộ 17 nhà máy điện hạt nhân vào năm 2022, trước mắt đóng cửa ngay 8 nhà máy xây trước năm 1980; tăng gấp đôi tỷ trọng năng lượng tái tạo trong sản lượng điện từ 17% hiện nay lên 35% vào năm 2022; hỗ trợ 5 tỷ Euro xây dựng 10 nhà máy điện gió ngoài khơi và trợ giá cho các nhà máy này để bán điện với giá 15 cent/Kw trong trong 12 năm. Ngoài yếu tố chính trị do sức ép dư luận sau sự kiện Fukushima (Nhật), việc cương quyết từ bỏ điện hạt nhân của Đức không chỉ giải toả lo ngại của xã hội Đức về tác động môi trường của điện hạt nhân, mà còn đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong chính sách năng lượng của Đức. Đằng sau quyết định này là chiến lược đổi mới công nghệ dựa vào năng lượng tái tạo (hiện chỉ đứng sau Mỹ về năng lượng gió), đưa ngành này trở thành một ngành kinh tế quan trọng hàng đầu ở Đức.

VI. Xã hội

Xã hội Đức khá hiện đại và cởi mở. Phần đông dân số được đào tạo tốt và có mức sống cao. Kể từ khi thống nhất, Đức là quốc gia đông dân nhất trong EU. Tuy nhiên, xã hội Đức cũng gặp phải những thách thức như sự già hoá dân số, tỉ lệ sinh thấp, người nhập cư đi kèm theo đó là văn hoá thiểu số.

Đức đang phấn đấu thực hiện quyền bình đẳng giới được ghi trong Hiến pháp thông qua một loạt chính sách xã hội. Khoảng 60% các bà mẹ có nghề nghiệp, 56% học sinh tốt nghiệp PTTH và 54% số sinh viên đại học là nữ. Trong chính trị, phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội để khẳng định mình. Điển hình như bà A. Merkel là nữ Thủ tướng Đức lần đầu tiên trong lịch sử từ 9/2005 và đảm nhiệm cương vị này lần thứ 3 liên tiếp (tái cử tháng 9/2009 và tháng 12/2013). Trong số 15 thành viên Chính phủ hiện nay có 4 nữ Bộ trưởng.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều người lao động nước ngoài đã sang Đức tìm việc làm, định cư nhiều thế hệ ở đây. 10% dân số Đức có nguồn gốc nhập cư, đông nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam,…

VII. Văn hoá

Đức được coi là đất nước của các thi nhân và các nhà hiền triết với các tên tuổi lớn như Goethe, Schiller, Heinrich Heine (thơ), Beethoven, Bach, Schumann (nhạc), Hegel, Karl Marx (triết học)... Với khoảng 95.000 cuốn sách mới xuất bản hoặc tái bản mỗi năm, Đức là một trong những quốc gia sách hàng đầu thế giới. Hội chợ sách quốc tế Frankfurt là sự kiện lớn nhất thế giới của ngành xuất bản.

Đức có đời sống văn hoá rất phong phú với 5000 bảo tàng, 300 nhà hát, trên 100 nhà hát nhạc kịch và 7.500 thư viện, khoảng 130 dàn nhạc giao hưởng chuyên nghiệp, trong đó phải kể đến Dàn nhạc giao hưởng Berliner Philharmoniker, dàn nhạc hoà tấu Bamberger Symphoniker. Một trong những hoạt động văn hoá nổi tiếng là Liên hoan âm nhạc Wagner ở thành phố Bayreuth. Điện ảnh của Đức cũng đạt nhiều khởi sắc từ những năm 90 trở lại đây. Berlin là quê hương của giải thưởng điện ảnh Gấu vàng thường niên. Hàng năm ở các địa phương của Đức có hàng trăm lễ hội văn hóa dân tộc, trong đó đáng kể nhất là Lễ hội bia (Octoberfest) ở Munich vào tháng 10, hấp dẫn hàng trăm ngàn du khách quốc tế tham dự.

VIII. Quốc phòng

Năm 2011, Đức bắt đầu thực hiện cải cách quân đội giai đoạn 2011-2017 nhằm cơ cấu lại theo hướng giảm quân số còn 170.000 quân chính quy, xoá bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự để chuyển sang chế độ tự nguyện, phấn đấu có thể cùng lúc triển khai được 10.000 quân ở nước ngoài. Đức đã thông qua chiến lược an ninh mạng nhằm sẵn sàng đối phó với chiến tranh công nghệ cao. Đức cam kết bắt đầu rút quân khỏi Afganistan vào năm 2012 và hoàn thành trước năm 2014.

IX. Chính sách đối ngoại

Về đối ngoại, Đức trở thành một nước thực sự có chủ quyền sau khi ký Hiệp ước 2+49 ở Mát-xcơ-va vào ngày 12/9/1990, có hiệu lực từ ngày 15/3/1991, kết thúc hoàn toàn tình trạng sau chiến tranh. Hiện Đức là thành viên tích cực và có vai trò quan trọng tại EU, NATO, OECD, LHQ....

Chính sách đối ngoại: Đức ủng hộ một thế giới đa cực, tôn trọng luật pháp quốc tế, đấu tranh cho nhân quyền, đối thoại, phòng ngừa khủng hoảng, tránh sử dụng bạo lực và kiến tạo lòng tin.

Ưu tiên đối ngoại và an ninh:

- Tăng cường quan hệ với EU và một châu Âu ngày càng kết nối với nhau chặt chẽ hơn là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Đức.

- Quan hệ đối tác xuyên Đại Tây dương là cơ sở an ninh của Đức và châu Âu, dựa trên liên minh chính trị và quân sự. Mối quan hệ với Mỹ có truyền thống lịch sử lâu đời, có nguồn gốc chung về văn hoá (do có nhiều người Đức di cư sang Mỹ trong những thế kỷ trước) cũng như các giá trị khác như dân chủ, nhân quyền...

- Đức thiết lập quan hệ đối tác an ninh bền vững với Nga, tăng cường hợp tác kinh tế, tài chính và xã hội với Nga trên bình diện song phương cũng như đa phương; chú trọng tăng cường hợp tác với Đông Âu. 

- Đức kiên quyết chống khủng bố trong khuôn khổ liên minh toàn thế giới; hợp tác với LHQ, Mỹ, EU và Nga trong việc giải quyết xung đột ở Trung Đông;  thực hiện chính sách ngoại giao cân bằng trong quan hệ với các nước Trung-Đông, đặc biệt trong mối quan hệ giữa Pa-let-xtin và I-xra-en.

- Ở châu Á, Trung Quốc là đối tác chiến lược toàn diện của Đức; là thị trường nhập khẩu máy móc nhiều nhất của Đức và nước xuất khẩu lớn thứ 3 vào Đức. Đông Nam Á ngày càng thu hút nhiều quan tâm của Đức. Thủ tướng Đức A. Merkel đã thăm Singapore và Việt Nam năm 2011, thăm Indonesia (7/2012); lần đầu tiên kể từ năm 1986, Tổng thống Đức thăm Myanmar (2/2014).

- Đức quan hệ với Châu Phi ở mức thấp, chủ yếu thông qua hình thức viện trợ nhân đạo và viện trợ phát triển cho một số nước nghèo nhưng cũng bắt đầu hướng tới khu vực này nhằm tranh thủ nguồn năng lượng, đồng thời tìm kiếm sự ủng hộ của các quốc gia châu Phi tại LHQ.

Tại LHQ, Đức ủng hộ cải cách HĐBA/LHQ theo hướng cân đối hơn giữa các khu vực. Đức đã và đang là thành viên của các tổ chức quan trọng của LHQ. Gần đây nhất, Đức là thành viên không thường trực HĐBA/LHQ nhiệm kỳ 2011 – 2012; Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2012 – 2015,… 

Ngoài ra, chính sách văn hoá và giáo dục đào tạo đối ngoại là một phần trong chính sách đối ngoại của Đức, phần lớn được các tổ chức như Viện Gớt, Cơ quan trao đổi hàn lâm Đức DAAD, Quỹ Alexander von Humboldt, Viện quan hệ nước ngoài và UNESCO của Đức thực hiện. 


 QUAN HỆ VIỆT NAM - CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC

 

I.  Quan hệ chính trị, ngoại giao

Việt Nam và CHLB Đức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 23/9/1975. Từ đó đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước ngày càng phát triển tích cực, sâu rộng, hiệu quả và toàn diện.

Trao đổi đoàn cấp cao:

Đoàn ta thăm bạn: Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1993); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (1993); Thủ tướng Phan Văn Khải (2001); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (2004); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2008). Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm thăm Đức (9/2010); Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh (9/2012); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (3/2013).

Đoàn bạn thăm ta: Thủ tướng Helmut Kohl (1995); Chủ tịch Quốc hội Wolfgang-Thierse (2001); Thủ tướng Gerhard Schroeder (2003 và 2004); Chủ tịch Hội đồng Liên bang Matthias Platzeck (2005); Tổng thống Horst Koehler (2007); Chủ tịch Hội đồng Liên bang Harald Ringstorff (2007); Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Frank-Walter Steinmeier (2008); Bộ trưởng Ngoại giao Guido Westerwelle (2011); Thủ tướng Angela Merkel (2011); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Kinh tế P. Roesler (9/2012).

Từ nhiều năm nay Đức là một trong những đối tác quan trọng nhất của ta ở Châu Âu. Sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước ngày càng được tăng cường thông qua duy trì trao đổi đoàn cấp cao và cơ chế tham vấn chính trị giữa hai Bộ Ngoại giao (cấp Thứ trưởng và cấp Vụ trưởng Vụ khu vực) được thiết lập từ 2008. Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Đức Angela Merkel (tháng 10/2011), Thủ tướng hai nước đã ký Tuyên bố chung Hà Nội về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược, trong đó đề ra các mục tiêu và biện pháp cụ thể tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ưu tiên; hai bên cũng thiết lập cơ chế họp Nhóm Điều hành chiến lược trong khuôn khổ Tham vấn chính trị cấp Thứ trưởng Ngoại giao đã họp lần thứ nhất tại Berlin (9/2012).

Ngày 13/3/2013, Hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao đã được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Đức và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/11/2013.

II. Quan hệ kinh tế - thương mại – đầu tư

Hai nước đã ký một số Hiệp định tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế như: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư, các hiệp định hàng hải, hàng không.

1. Thương mại: 

Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam ở Châu Âu, chiếm 19% xuất khẩu của ta sang EU (bằng cả Anh và Pháp cộng lại); và cũng là cửa ngõ trung chuyển quan trọng của hàng hoá Việt Nam sang các thị trường khác ở châu Âu. Với sự phục hồi nhanh của kinh tế Đức, trao đổi thương mại song phương năm 2013 tăng mạnh bất chấp tác động tiêu cực của khủng hoảng nợ châu Âu, đạt 7,1 tỷ USD (tăng khoảng 12 % so với năm 2012). 

Đức ủng hộ EU sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam, thúc đẩy đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam-EU nhằm tăng cường tối đa kinh tế, thương mại giữa hai nước.

Việt Nam được Đức xếp hạng đối tác thương mại thứ 40/144 nước xuất khẩu hàng hoá vào Đức, hạng 55/144 nước nhập khẩu hàng hoá từ Đức và hạng 47/144 nước đối tác thương mại chính trên kim ngạch hai chiều.

Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang Đức theo thứ tự tổng trị giá là giày dép, hàng dệt may, cà phê hạt, đồ gỗ, thủy sản, đồ da v.v.., và nhập từ Đức chủ yếu là máy móc, thiết bị kỹ thuật, ô tô, máy dệt, dược phẩm, hoá chất10 .

2. Đầu tư:

Là nền kinh tế hướng tới xuất khẩu, Đức coi Việt Nam là thị trường có tiềm năng phát triển nhanh ở châu Á (chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ). Nhiều tập đoàn hàng đầu của Đức (Siemens, Metro, Mercedes-Benz, Deutsche Bank, Allianz...) đã mở các cơ sở và cam kết đầu tư lâu dài ở Việt Nam.

Tính đến tháng 12/2013, Đức có 215 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,16 tỷ USD, đứng thứ 22 trên tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Hầu hết các dự án của Đức tập trung vào: (i) lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 76 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký là 525,08 triệu USD, chiếm 49,1% vốn đầu tư đăng ký; (ii) lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí nước với 4 dự án có tổng vốn đăng ký 306,66 triệu USD, chiếm 29,15% tổng vốn đăng ký; (iii) lĩnh vực bán buôn, bán lẻ và sửa chữa với 24 dự án và tổng vốn đầu tư 78,15 triệu USD.

Vốn đầu tư của Đức tập trung vào (i) hình thức 100% vốn nước ngoài, chiếm 69% tổng vốn đầu tư đăng ký; (ii) hình thức liên doanh chiếm 30,1% tổng vốn đầu tư đăng ký: (iii) còn lại là hình thức công ty cổ phần và hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Đức có dự án đầu tư tại 30 tỉnh, thành phố của cả nước, hầu hết tập trung ở các thành phố lớn, có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối phát triển như TP HCM (70 dự án, 173 triệu USD), Ninh Thuận (2 dự án, 156,7 triệu USD), Đồng Nai, Hà Nội, Đà Nẵng…

Một số tập đoàn đa quốc gia của Đức đã có đầu tư tại Việt Nam như: Daimler-Chrysler (sản xuất ô tô Mercedes-Benz), B.Braun (sản xuất thiết bị y tế), Messer (tách hóa lỏng khí phục vụ luyện kim)...

Tính đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 7 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Đức với tổng vốn đầu tư 5,35 triệu USD. Một số dự án tiêu biểu là Công ty Liên doanh Nhà Việt (VietHaus) có tổng vốn đầu tư là 9,4 triệu USD; dự án Chi nhánh Vietinbank tại Đức, cấp phép ngày 19/1/2011, tổng vốn đăng ký là 7,5 triệu USD; dự án mua và sửa chữa bất động sản làm trụ sở phục vụ Văn phòng đại diện của Vietinbank với tổng số vốn đăng ký trên 2 triệu USD; dự án kinh doanh thương mại, dịch vụ của công ty Nam Bằng có tổng vốn đầu tư là gần 1,4 triệu USD11 … Tuy các dự án đầu tư không nhiều và tổng vốn đầu tư chưa cao nhưng đã thể hiện quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam với thị trường EU nói chung và Đức nói riêng, mở đường cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Đức và EU.

III. Quan hệ hợp tác phát triển

Đức là một trong những nước viện trợ nhiều và thường xuyên ODA cho Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, Đức đã cung cấp khoảng 1,5 tỷ USD cho các dự án ODA tại Việt Nam thông qua hợp tác kỹ thuật và hợp tác tài chính. Hợp tác kỹ thuật được thực hiện dưới hình thức cung cấp viện trợ không hoàn lại cho các dự án. Hợp tác tài chính bao gồm cả hai hình thức viện trợ không hoàn lại (khoảng 40%) và tín dụng ưu đãi (khoảng 60%). Tín dụng ưu đãi của Đức có mức ưu đãi cao với lãi suất thấp 0,75%/năm, thời gian vay 40 năm, 10 năm ân hạn. 3 lĩnh vực ưu tiên hợp tác giữa Đức và Việt Nam là: Hỗ trợ cải cách kinh tế và xây dựng kinh tế thị trường, bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên (kể cả cấp thoát nước và xử lý nước thải, rác thải) và y tế.

Tại kỳ họp đàm phán về hợp tác phát triển giữa Chính phủ Việt Nam và Đức tháng 7/2013 tại Bonn, hai bên nhất trí điều chỉnh các lĩnh vực ưu tiên trong giai đoạn tới là năng lượng, môi trường và đào tạo nghề; Chính phủ Đức đã cam kết dành cho Việt Nam 76,7 triệu Euro ODA trong thời gian tới.

Một số dự án lớn sử dụng ODA của Chính phủ Đức là: Dự án tuyến tầu điện ngầm số 2 tại Tp Hồ Chí Minh (240,75 triệu Euro); Dự án Nâng cao hiệu quả năng lượng khu vực nông thôn (100 triệu Euro); Dự án Nhà máy điện gió Phú Lạc (35 triệu Euro)12...

IV. Quan hệ hợp tác văn hóa, giáo dục, du lịch

1. Văn hóa:

Năm 1990, Việt Nam và Đức ký Hiệp định Hợp tác văn hoá tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hợp tác và trao đổi văn hóa giữa hai nước. Năm 1997, Đức thành lập Trung tâm văn hoá Đức (hay còn còn gọi là Viện Gớt) tại Hà Nội. Đây là địa điểm thường xuyên tổ chức các hoạt động nhằm giới thiệu văn hóa Đức và giảng dạy tiếng Đức tại Việt Nam. Hàng năm, nhiều đoàn nghệ thuật Việt Nam sang Đức biểu diễn phục vụ bà con Việt kiều và giới thiệu văn hóa Việt Nam tới công chúng Đức.

2. Hợp tác giáo dục và đào tạo:

Hàng năm, Đức cung cấp cho Việt Nam nhiều học bổng đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ. Hiện có khoảng 300 nghiên cứu sinh Việt Nam nhận học bổng nghiên cứu tại Đức và khoảng 4000 sinh viên Việt Nam đang theo học tại các trường đại học của Đức. Ngoài ra, các cơ quan chức năng của hai nước đang tích cực triển khai Chương trình đào tạo 85 nghiên cứu sinh/năm tại bang Hessen của Đức.

Dự án “hải đăng” của hai nước trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo là Trường Đại học Việt- Đức, được thành lập từ tháng 9/2008 tại Tp. Hồ Chí Minh, hoạt động theo mô hình của đại học Đức với sự hỗ trợ tích cực của Cơ quan Trao đổi Hàn lâm (DAAD) và bang Hessen (Đức). Trường đã được Chính phủ phê duyệt xây dựng thành trường đại học tiêu biểu xuất sắc có trụ sở tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương với nguồn vốn vay trị giá trên 180 triệu USD của Ngân hàng Thế giới. Dự kiến đến năm 2017, trường sẽ được xây dựng xong.

Đức là một trong những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực dạy nghề thông qua việc hỗ trợ Bộ LĐ-TB-XH xây dựng chiến lược dạy nghề quốc gia, sọan thảo Luật Dạy nghề cũng như xây dựng các trường dạy nghề kiểu mẫu ở một số địa phương theo mô hình đào tạo nghề song hành rất thành công của Đức như trường LILAMA 2 tại Đồng Nai,…

Trong khuôn khổ chương trình “Make it in Germany”, từ tháng 9/2013, Việt Nam đã cử 100 điều dưỡng viên sang Đức làm việc. Đây cũng là một trong những trọng tâm được nêu trong Kế hoạch hành động Việt – Đức.

Chương trình dạy tiếng Đức là ngoại ngữ hai là sáng kiến của Bộ Ngoại giao Đức đang được triển khai tại một số trường phổ thông tại Hà Nội như trường THPT Việt – Đức, trường THPT chuyên ngữ thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Phía Đức cũng hỗ trợ các cơ sở đào tạo tiếng Đức tại Việt Nam về trang thiết bị đào tạo, cung cấp giáo viên bản ngữ và cấp học bổng cho giáo viên cũng như các sinh viên, học sinh đạt kết quả học tập xuất sắc.

V. Quan hệ hợp tác khoa học - kỹ thuật

Trước năm 1995, hợp tác khoa học và công nghệ giữa Việt Nam và CHLB Đức được thực hiện chủ yếu thông qua các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ nghiên cứu với sự tài trợ của Cơ quan trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD), Quỹ khoa học trẻ Alexander & Humboldt, Quỹ đào tạo chuyên gia trong ngành công nghiệp (CDG), Quỹ phát triển (DSE)...

Kể từ sau khi ký Nghị định thư hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) và Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức (BMBF) năm 1997, hợp tác về khoa học, công nghệ giữa hai nước đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Hai bên thường xuyên trao đổi các đoàn nghiên cứu khoa học, tổ chức hội nghị, hội thảo chuyên ngành và triển khai các dự án nghiên cứu chung với sự tham gia của các chuyên gia hai bên. Hiện nay, hai bên đang trao đổi và đi đến thống nhất nội dung để sớm ký Hiệp định mới về hợp tác KHCN, tạo cơ sở pháp lí thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực này.

VI. Quan hệ hợp tác quốc phòng

Quan hệ hợp tác về quốc phòng hai nước có những bước triển tích cực trong những năm qua. Từ 2003, Việt Nam cử Tùy viên Quốc phòng tại Berlin và Đức cử Tùy viên Quốc phòng tại Thái Lan kiêm nhiệm Việt Nam.

Tháng 10/2004, Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà thăm Đức. Trong chuyến thăm, hai bên đã ký kết thỏa thuận về việc Đức giúp Việt Nam đào tạo một số sỹ quan quân đội. Từ 2005 đến nay đã có 6 đoàn của Bộ Quốc phòng Đức thăm Việt Nam và 15 đoàn Việt Nam thăm Đức. Ta cũng cử 37 đoàn sang Đức dự huấn luyện, hội thảo, hội nghị, triển lãm liên quan tới Quốc phòng. Hàng năm, Đức hỗ trợ đào tạo sỹ quan quân sự Việt Nam tại các cơ sở quân đội của Đức. 
 
VII. Quan hệ hợp tác với các Bang

Bên cạnh quan hệ với Việt Nam ở cấp Chính phủ, các bang ở Đức rất chủ động tăng cường hợp tác với Việt Nam. Đến nay, ta đã đón nhiều Lãnh đạo các bang của Đức sang thăm Việt Nam như Thủ hiến các bang Brandenburg (2005), Bayern (2007), Mecklenburg-Vorpommern (2007), Hessen (2008, 2012), Baden – Württemberg (2010), Sachsen (2011), Berlin (2013). Trong quan hệ với các địa phương của Đức, ta tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực thế mạnh của Bạn như văn hoá - giáo dục, khoa học kỹ thuật công nghệ cao, giao thông vận tải. Đặc biệt, nhân chuyến thăm Việt Nam tháng 10/2012 của Thủ hiến bang Hessen, hai bên đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác ưu tiên, tạo khuôn khổ hợp tác sâu rộng hơn nữa giữa Việt Nam và bang Hessen và là hình mẫu cho hợp tác giữa Việt Nam với các địa phương của Đức. 

VIII. Cộng đồng người Việt tại Đức

Cộng đồng người Việt Nam ở Đức hiện có khoảng 130.000, trong đó 20% đã nhập quốc tịch Đức; 85 % trong số còn lại đã có quy chế cư trú hợp pháp. Nhìn chung, kiều bào ở Đức có cuộc sống tương đối ổn định, đa số theo diện làm công ăn lương hoặc buôn bán nhỏ.

Tại Đức, các hình thức tập hợp hội đoàn của người Việt khá đa dạng như Hội người Việt Nam, Hội Đức - Việt, các hội đồng hương, câu lạc bộ thơ - văn, nhiếp ảnh, tổ chức xã hội từ thiện,… Đa số các tổ chức hội đoàn của người Việt có tinh thần yêu nước, là cầu nối quan trọng giữa các CQĐD của Việt Nam tại Đức và cộng đồng, tích cực vận động bà con hướng về quê hương và tham gia các phong trào quyên góp ủng hộ nạn nhân dioxin, ủng hộ các chiến sĩ ở hải đảo, tương trợ đồng bào lũ lụt,v.v…

Năm 2011, Liên hiệp người Việt tại Đức được thành lập, thể hiện quyết tâm cao và tinh thần đoàn kết của cộng đồng người Việt tại Đức, đáp ứng nguyện vọng chính đáng của đa số bà con trong cộng đồng. Liên hiệp đại diện cho lợi ích của cộng đồng người Việt tại Đức trong quan hệ với chính quyền sở tại, là cầu nối quan trọng giữa cộng đồng với quê hương đất nước, đồng thời là nhân tố tăng cường đoàn kết trong cộng đồng người Việt ở Đức.

Thế hệ người Việt thứ hai ở Đức hội nhập khá thành công, được chính quyền sở tại đánh giá cao và hiếm thấy trong các cộng đồng nhập cư ở Đức (hơn 50% học sinh đỗ trung học hạng ưu, nhiều em là thành viên các đội tuyển học sinh xuất sắc của Đức như toán, võ thuật, thơ, văn, âm nhạc...). Hiện nay, các trung tâm dạy tiếng Việt ở Leipzig, Magdeburg, Dresden, Chemnitz, Berlin…hiện đã áp dụng giáo trình tiếng Việt mới của Bộ GDĐT.

IX. Địa chỉ liên hệ

- Địa chỉ Đại sứ quán Việt Nam tại CHLB Đức:

Địa chỉ: Elsenstrasse 3, 12435, Berlin

Điện thoại : +49 (30) 536 30 108

Fax: +49 (30) 536 30 200

- Địa chỉ Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Frankfurt, CHLB Đức:

Địa chỉ: Villa Hanoi, Kennedy Allee 49, 60596 Frankfurt am Main

Điện thọai : +49 (69) 795 336 50

Fax: +49 (69) 795 336 511

- Đại sứ quán Đức tại Việt Nam:  

Địa chỉ: 40 Trần Phú, Hà Nội

Điện thoại: 04 38453836

Fax: 04 38453838

Email: info@hanoi.diplo.de

____________________________________________________________________________

1 Nguồn: IWF, tháng 10/2013
2 Nguồn: IWF, tháng 10/2013
3 Nguồn: Tổng Cục Thống kê liên bang
4 Ngày 18/12/2013 Quốc hội Đức họp và bầu Thủ tướng và phê chuẩn chính phủ mới.
5 Từ 18/3/2012
6 từ tháng 9/2005, tái trúng cử tháng 12/2013
7 Là BTNG Đức nhiệm kỳ 2005 – 2009
8 từ tháng 9/2005, tái trúng cử tháng 10/2013
9 2: CHDC Đức và CHLB Đức; 4: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp.
10 Nguồn: Bộ Công Thương.
11 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
12 Nguồn: Bộ KHĐT.

 

 
Back Top page Print Email

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn 
Hiển thị tốt nhất với Internet Explorer. Best viewed with Internet Explorer