Trang chủ     Đăng ký nhận tin    Ý kiến bạn đọc   Liên kết website English 
Thứ hai, ngày 17 tháng 03 năm 2025 Tìm kiếm
 Tìm kiếm nâng cao

Tài liệu cơ bản và quan hệ Việt Nam - Hung-ga-ri


BỘ NGOẠI GIAO

    Vụ Châu Âu                                                                      

 

 

TÀI LIỆU CƠ BẢN VỀ HUNG-GA-RI

 

 

I. Thông tin cơ bản:

-         Tên nước: Hung-ga-ri (Hungary).

-         Thủ đô: Bu-đa-pét (Budapest).

-         Ngày Quốc khánh: 20/08, ngày lễ Thánh X-ti-phen, tức Vua I-xtơ-van (Istvan) - người sáng lập Hung-ga-ri.

-         Vị trí địa lý: Nằm giữa Trung Âu, có đường biên giới chung với các nước U-crai-na, Ru-ma-ni, Xéc-bi-a, Xlô-vê-ni-a, Crô-a-ti-a, Áo và Xlô-va-ki-a.

-         Diện tích: 93.030 km2.

-         Khí hậu: Khí hậu ôn đới lục địa.

-         Dân số: 9.919.128 người (2017). Tỷ lệ tăng dân số: -0,21%; tuổi thọ trung bình: 75,24 tuổi. Khoảng 69,5% dân số sống ở thành thị. Phân bố theo lĩnh vực lao động: nông nghiệp: 4,7%; công nghiệp: 30,9%; dịch vụ: 64,4%.

-         Dân tộc:  Người Hung-ga-ri chiếm 92,3%, người Di-gan chiếm 1,9%, còn lại là người Crô-át, Đức, Ru-ma-ni, Xéc-bi, Xlô-vác, Xlô-ven.

-         Tôn giáo: Người theo đạo Thiên chúa chiếm 37,2%, đạo Tin lành 21%, Phúc âm 6,2%, Do thái 5,9%, Cơ đốc Hy Lạp 2,2%, Chính thống 0,6%.

-         Ngôn ngữ: Tiếng Hung-ga-ri.

-         Đơn vị tiền tệ: Pho-rinh (Ft); 1 USD = 280 Ft (3/2019).

-         GDP: 129,7 tỷ USD, trong đó nông nghiệp chiếm 3,4%, công nghiệp: 28%, dịch vụ: 68,7% (2018).

-         Thu nhập bình quân đầu người: 13.076 USD (2018).

-         Lãnh đạo chủ chốt: Tổng thống I-a-nô-sơ A-đe (Janos Ader; thuộc Đảng Liên minh Công dân Hung-ga-ri - FIDESZ; từ 02/05/2012, mới được bầu lại tháng 3/2017); Thủ tướng Ô-rờ-ban Víc-tô (Orbán Viktor; FIDESZ; mới được bầu lại tháng 4/2018); Chủ tịch Quốc hội Kuê-vê-rơ Lát-xlô (Kovér László; FIDESZ; mới được bầu lại tháng 5/2018); Bộ trưởng Ngoại giao và Kinh tế đối ngoại Xi-ia-rơ-tô Pê-te (Szijjártó Peter; mới được bầu lại tháng 5/2018).

 

II. Khái quát lịch sử:

 

Sau khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ, năm 896, một thủ lĩnh của người Mo-ghi-o-rơ (tức người Hung-ga-ri)  là A-rơ-pát đã thống nhất các bộ lạc Mo-ghi-o-rơ di cư từ Tây U-ran vào vùng đồng bằng Pa-nô-ni-a (phía Tây sông Đa-nuýp) định cư, lập nên Vương triều A-rơ-pát. Người Mo-ghi-o-rơ đã tiến hành thắng lợi nhiều chiến dịch quân sự từ Côn-xtan-ti-nốp (I-xtan-bun, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) sang tận Tây Ban Nha. Trong 2 năm 1241-1242, Hung-ga-ri bị quân Mông Cổ xâm lược, hơn một nửa dân số Hung-ga-ri thiệt mạng. Năm 1286, quân Mông Cổ một lần nữa sang cướp phá đã bị Hung-ga-ri đánh bại. Cuối thế kỷ 15, Hung-ga-ri bắt đầu suy yếu. Giữa thế kỷ 16, Hung-ga-ri bị chia cắt thành 3 phần: miền Tây Bắc dưới sự cai trị của Áo, miền Trung (lãnh thổ Hung-ga-ri ngày nay) bị Ốt-tô-man cai trị và miền Đông thành Công quốc Tơ-ran-xin-va-ni-a (chư hầu của Ốt-tô-man, nay thuộc Ru-ma-ni). Khoảng 150 năm sau đó, Áo giành quyền cai trị toàn bộ Hung-ga-ri. Năm 1918, đế quốc Áo-Hung sụp đổ, Hung-ga-ri trở thành quốc gia độc lập. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, Hung-ga-ri tham gia phe phát-xít và phải chịu thiệt hại nặng nề. Từ năm 1948, Hung-ga-ri tiến hành xây dựng chế độ XHCN. Năm 1956, một cuộc chính biến đòi lật đổ chế độ XHCN nổ ra buộc quân đội Liên Xô phải can thiệp. Năm 1990, Hung-ga-ri đã tiến hành bầu cử đa đảng, năm 1999 gia nhập NATO và năm 2004 được kết nạp vào Liên minh Châu Âu.

 

III. Thể chế nhà nước

          Hung-ga-ri theo mô hình dân chủ đại nghị. Tổng thống do Quốc hội bầu, nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội 1 viện gồm 199 ghế, hình thành từ danh sách trúng cử của các đảng lọt vào Quốc hội (phải đạt 5% tổng số phiếu bầu hợp lệ trở lên) và các đại biểu thắng cử trực tiếp tại các khu vực bầu cử. Quốc hội có nhiệm kỳ 4 năm. Thủ tướng do Tổng thống đề cử từ đảng hoặc liên minh giành được đa số trong Quốc hội và phải được Quốc hội bỏ phiếu thông qua. Các thành viên Chính phủ do Thủ tướng đề cử và Tổng thống bổ nhiệm.

IV. Kinh tế:

          Ngay từ năm 1968, Hung-ga-ri đã tìm cách tự do hóa nền kinh tế một cách giới hạn và từ năm 1990 đã chuyển hẳn sang nền kinh tế thị trường. Từ cuối năm 2008, Hung-ga-ri bị ảnh hưởng mạnh của khủng hoảng tài chính thế giới, thâm hụt ngân sách cao (9,5% GDP). Từ năm 2010, kinh tế Hung-ga-ri đã phục hồi, GDP tăng trưởng mỗi năm.

Năm 2018 tăng trưởng GDP từ 4,3- 4,5% đưa Hung-ga-ri trở thành một trong những nước có tốc độ tăng cao nhất trong EU; lạm phát 2,8%; thâm hụt ngân sách 3%; tỷ lệ thất nghiệp 3,7%. Đầu tư tăng trên 20%, xuất khẩu tăng hơn 4%, nhập khẩu tăng hơn 6%. Dự báo kinh tế Hung-ga-ri trong năm 2019 tiếp tục duy trì ổn định cao với mức tăng GDP trên 4%.

          Các ngành công nghiệp chủ chốt của Hung-ga-ri gồm: chế tạo máy, thiết bị đo lường chính xác, ô tô, nhôm, lọc hóa dầu, hóa chất, dược phẩm, thiết bị y tế... Các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu gồm: lúa mì, ngô, hạt hướng dương, củ cải đường, thịt gia súc, gia cầm, sữa...

          Thương mại: Hung-ga-ri quan hệ thương mại chủ yếu với các nước Châu Âu.

Xuất khẩu năm 2018 của Hung-ga-ri đạt 120 tỷ USD. Các mặt hàng xuất chủ yếu gồm máy móc, thiết bị (chiếm 53,5%); các sản phẩm chế tạo khác (31,2%); thực phẩm (8,7%); nguyên liệu thô (3,4%); nhiên liệu và điện (3,9%).

- Các đối tác xuất khẩu chủ yếu là: Đức (chiếm 25,6% tổng kim ngạch), Ru-ma-ni (6,2%), Xlô-va-kia (6,1%), Áo (6%), I-ta-li-a (4,8%), Pháp (4,8%), Anh (4,2%);

Nhập khẩu đạt 96,83 tỷ USD. Các mặt hàng nhập chủ yếu gồm: máy móc, thiết bị (45,4%); các sản phẩm thiết bị khác (34,3%); nhiên liệu và điện (12,6%); thực phẩm (5,3%); nguyên liệu khác (2,5%).

- Các đối tác nhập khẩu chủ yếu là Đức (25,5%), Nga (8,6%), Trung Quốc (8,7%), Áo (6,8%), Xlô-va-kia (5,8%), Ba Lan (4,9%), I-ta-li-a (4,4%), Séc (4,2%).

 

V. Chính sách đối ngoại:

          Về đối ngoại, hiện nay Hung-ga-ri tiếp tục ưu tiên hội nhập sâu vào EU; củng cố quan hệ với các nước láng giềng và khu vực; ưu tiên ngoại giao năng lượng; bảo vệ lợi ích của cộng đồng gốc Hung-ga-ri ở các nước láng giềng; khôi phục và thúc đẩy quan hệ với các đối tác truyền thống (ở Đông Nam Á, Việt Nam là ưu tiên).

          Chính sách của Hung-ga-ri hiện nay theo xu hướng chủ nghĩa dân tộc, lập trường cứng rắn trong vấn đề di cư (không ủng hộ chương trình phân bổ hạn ngạch nhập cư do EU đưa ra). Vì lợi ích kinh tế năng lượng, Hung-ga-ri có chính sách mềm mỏng trong quan hệ với Nga, không ủng hộ các biện pháp trừng phạt Nga. Tháng 6/2018, Hung-ga-ri thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Trung Quốc. Từ năm 2014, Hung-ga-ri theo đuổi chính sách hướng Đông và Nam (các nước Châu Á và Châu Mỹ La Tinh) để phát triển kinh tế và tăng cường quan hệ với nhóm V4, ủng hộ mở rộng EU nhằm nâng cao vai trò trong khu vực.

          Hung-ga-ri là thành viên của các tổ chức khu vực và quốc tế sau: EBRD (Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Châu Âu), EIB (Ngân hàng Đầu tư Châu Âu), EU, FAO (Tổ chức Nông lương thế giới), IAEA (Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế), ICAO (Tổ chức Hàng không quốc tế), IMF, Interpol, IPU (Liên minh Bưu chính quốc tế), ISO (Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế), ITU (Liên minh Viễn thông quốc tế), NATO, OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Châu Âu), OIF (Tổ chức quốc tế Pháp ngữ - quan sát viên), OSCE (Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu), Hiệp ước Schengen, SECI (Sáng kiến Hợp tác Đông Nam Âu), Liên hợp quốc, UNESCO, UNHCR (Cơ quan về Tị nạn của Liên hợp quốc), WHO (Tổ chức Y tế thế giới), WTO (Tổ chức Thương mại thế giới)...

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                        QUAN HỆ HUNGARY - VIỆT NAM

 

I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ:

                Việt Nam và Hung-ga-ri thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 03/02/1950. Bạn đã dành cho Việt Nam sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Sau khi Hung-ga-ri thay đổi chế độ chính trị, trong những năm đầu thập kỷ 1990, quan hệ hai nước bị giảm sút. Từ năm 1992, mối quan hệ hữu nghị và hợp tác truyền thống dần được phục hồi.

          Trao đổi đoàn:

Năm

Đoàn ra

Đoàn vào

2004

Chủ tịch nước Trần Đức Lương (5/2004)

 

2005

 

Thủ tướng Du-tran Phe-ren-xơ (7/2005)

2008

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (6/2008)

-       Bộ trưởng Ngoại giao Gôn-dơ Kin-ga (3/2008)

-       Tổng thống Sôi-ôm La-xlô (5/2008)

2009

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

(18-19/9/2009)

 

2010

 

Ngoại trưởng Mo-rờ-tô-nhi Ia-nô-sơ (dự Diễn đàn ARF - 7/2010)

2011

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm

(6/2011, dự FMM 10 – ASEM)

 

2012

 

Phó Thủ tướng - Bộ trưởng Hành chính và Tư pháp No-vờ-ra-trích Ti-bo

(14-15/11/2012)

2013

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (7/2013)

 

2013

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (9/2013)

 

2014

 

Tổng thống Ader Janos (11/2014)

2015

 

Chủ tịch Quốc hội (11/2015)

2016

 

-       Bộ trưởng Ngoại giao (1/2016)

-       Bộ trưởng Tư pháp (3/2016)

-       Phó Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Hungary (9/2016)

2017

Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân (4/2017).

-       Phó Quốc Vụ khanh Hungary (01/2017);

-       Phó Chủ tịch Quốc hội Hungary (01/2017);

-       Thủ tướng Hungary (9/2017)

2018

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

(8-11/9/2018)

 

 

                Năm 2017, Đảng ta đã thiết lập quan hệ chính thức với Đảng Liên minh Công dân Hung-ga-ri cầm quyền. Hai Bên đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Liên minh Công dân Hung-ga-ri đầu tháng 9/2017. Nhân chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hungary từ 8-11/9/2018, hai bên đã nhất trí nâng cấp quan hệ lên Đối tác toàn diện.

 

II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ

1.     Thương mại:

          - Cơ chế hợp tác song phương: Uỷ ban hỗn hợp về hợp tác kinh tế Việt Nam – Hung-ga-ri (UBHH) đã phát huy tốt vai trò thúc đẩy hợp tác song phương, Khóa họp đầu tiên của Uỷ ban diễn ra tại Bu-đa-pét (12/2005). Khóa họp thứ 8 diễn ra tại Hà Nội tháng 12/2018.

 

Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Hung-ga-ri

                                                                        (đơn vị: triệu USD)

 

2013

2014

2015

2016

2017

2018

Việt Nam nhập

87,85

120,84

65,73

172,8

147,3

244,2

Việt Nam xuất

60,16

55,04

129,55

93,32

207

401,2

Tổng kim ngạch

148,01

175,88

195,28

266,13

354,3

645,4

Nguồn: Tổng cục Hải quan

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta: Hàng dệt may, giày dép, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, phương triên vận tải và phụ tùng… Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Bạn: tân dược, máy móc, phụ tùng, hóa chất, thức ăn gia súc…                     

          2. Đầu tư: Tính đến nay, Hung-ga-ri có 15 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 50,66 triệu USD, đứng thứ 55 trong tổng số 105 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.

Về lĩnh vực đầu tư, trong số 15 dự án của Hung-ga-ri co 03 dự án thuộc lĩnh vực chế biến chế tạo với tổng vốn đầu tư 41,82 triệu USD. Đứng thứ 2 là lĩnh vực truyền thông với 03 dự án với tổng vốn đầu tư 5,87 triệu USD. Lĩnh vực kinh doanh bất động sản đứng thứ 3 với 01 dự án, tổng vốn đầu tư 02 triệu USD. Còn lại là các lĩnh vực khác.

Về hình thức đầu tư, chủ yếu là 100% vốn nước ngoài (06 dự án, tổng vốn đầu tư 46,39 triệu USD) và hình thức liên doanh (08 dự án, tổng vốn đầu tư 4,16 triệu USD). Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ có 01 dự án với tổng vốn đầu tư hơn 110.000 USD.

Về địa bàn đầu tư, chủ yếu vào 04 tỉnh, thành phố của cả nước. Dự án lớn nhất với quy mô 401 triệu USD thuộc lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tại tỉnh Bình Dương. Hà Nội có 10 dự án với tổng vốn đầu tư 8,59 triệu USD. Số còn lại thuộc các địa phương khác như Thanh Hóa, Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Tháp.

 

Các dự án đầu tư tiêu biểu của Hung-ga-ri tại Việt Nam:

(i). Dự án Công ty TNHH Crest Asia Việt Nam, cấp phép ngày 15/09/2008 tại Bình Dương với tổng vốn đầu tư 40 triệu USD , sản xuất da thành phẩm, da thô mộc và các sản phẩm từ da;

(ii). Dự án Công ty TNHH phát triển White Stone, cấp phép ngày 26/08/2009 tại Hà Nội, tổng vốn đầu tư 2 triệu USD, thuộc lĩnh vực tư vấn bất động sản;

(iii). Dự án Công ty TNHH Amdocs Việt Nam, cấp phép ngày 16/10/2009 tại Hà Nội, tổng vốn đầu tư 2 triệu USD, thuộc lĩnh vực thông tin truyền thông.

(iv). Dự án Công ty Liên doanh Việt – Hung, cấp phép ngày 14/08/2009 tại Thanh Hóa, tổng vốn đầu tư 1,5 triệu USD, sản xuất đá ốp lát.

 

III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN

Từ năm 2003, Bạn đưa Việt Nam vào danh sách ưu tiên nhận viện trợ phát triển. Năm 2004, chương trình ODA đã bắt đầu được triển khai với dự án nuôi cá nước ngọt và một số đoàn của ta sang Hung-ga-ri trao đổi kinh nghiệm. Năm 2005, Bạn viện trợ không hoàn lại cho ta 600.000 USD, năm 2006 là 110.000 USD (Dự án Phát triển nghề may xuất khẩu các sản phẩm da cá sấu). Năm 2007, cam kết ODA của bạn tương đương mức năm 2006 (500 ngàn EUR). Năm 2008, Bạn tiếp tục viện trợ cho ta 500.000 EUR và cho vay 35 triệu EUR tín dụng ưu đãi để thực hiện dự án cấp nước sạch tại Quảng Bình và dự án quản lý dân số điện tử của Bộ Công an.

Năm 2009, Bạn cam kết 60 triệu EUR tín dụng ưu đãi cho dự án xây dựng Bệnh viện Ung bướu thành phố Cần Thơ có quy mô 500 giường. Đến tháng 01/2016, hai Bên đã ký Thỏa thuận hợp tác tài chính trị giá 60 triệu EUR để xây dựng Bệnh viện Ung bướu thành phố Cần Thơ. Ngày 7/8/2017, Sở Y tế thành phố Cần Thơ đã ký hợp đồng số 07.8/HD-EPC với liên danh nhà thầu Hung-ga-ri để thực hiện gói thầu Tổng thầu thiết kế, cung cấp thiết bị, công nghệ và thi công xây dựng công trình Bệnh viện Ung bướu thành phố Cần Thơ. Ngày 7/9/2018, Hiệp định vay của dự án đã được ký kết (lần 02) giữa Bộ Tài chính và Ngân hàng Eximbank Hungary tại Hà Nội và chính thức có hiệu lực từ ngày 11/01/2019 đến 11/07/2022, cơ bản hoàn thiện các thủ tục cần thiết để thực hiện việc xây dựng Bệnh viện Ung bướu Cần Thơ.

Tháng 01/2017, hai Bên đã ký Hiệp định khung về Hợp tác tín dụng trị giá 440 triệu EUR giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hung-ga-ri. Tháng 9/2017, trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Hung-ga-ri, hai Bên đã ký quy trình triển khai Hiệp định khung về hợp tác tài chính giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hung-ga-ri, Hiệp định vay tài trợ cho Dự án Đầu tư xây dựng Bệnh viện Ung bướu thành phố Cần Thơ. Hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang rà soát các Bộ ngành và địa phương về nhu cầu sử dụng khoản tín dụng trị giá 440 triệu EUR nêu trên của Chính phủ Hung-ga-ri và trình Thủ tướng Chính phủ duyệt các đề xuất Dự án. Đến nay, hai bên đã thống nhất được 05 đề xuất dự án với tổng giá trị khoảng 160 triệu Euro: cung cấp nước sạch tỉnh Thanh Hóa; Dự án xây dựng Bệnh viện tỉnh Tuyên Quang (Kim Xuyên); Dự án xây dựng Bệnh viện Phụ sản tỉnh Hải Dương, Dự án cấp nước sinh hoạt huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2, Dự án xử lý nước thải tỉnh Vĩnh Long. Tuy nhiên, các dự án này hiện vẫn chưa được triển khai trên thực tế.

 

IV. VĂN HÓA - DU LỊCH, GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO

        - Giáo dục - đào tạo là lĩnh vực hợp tác truyền thống giữa Việt Nam và Hung-ga-ri. Thời gian trước đây Bạn đã giúp ta đào tạo hàng nghìn chuyên gia, kỹ sư. Trong chuyến thăm chính thức Hung-ga-ri của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (28-30/07/2013), Bộ Giáo dục - Đào tạo Việt Nam và Bộ Nguồn Nhân lực Hung-ga-ri đã ký “Chương trình trao đổi giữa Bộ Giáo dục – Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Nguồn Nhân lực Hung-ga-ri giai đoạn 2013-2014”, trong đó có nội dung Chính phủ Hung-ga-ri tăng số học bổng cấp cho sinh viên Việt Nam lên 40 suất.

        - Nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống A-đe I-a-nô-sơ (11/2014), Hung-ga-ri đã tuyên bố nâng số học bổng cấp cho sinh viên Việt Nam lên 100 suất mỗi năm. Hai bên đã ký lại Chương trình trao đổi giữa Bộ Giáo dục – Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Nguồn Nhân lực Hung-ga-ri giai đoạn 2016-2018”.

        - Nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Ô-rơ-ban Vích-tô-rơ (9/2017), hai Bên đã ký Phụ lục bổ sung chương trình hợp tác giáo dục giai đoạn 2016 – 2018. Theo đó, phía Hung-ga-ri sẽ nâng lên 200 suất học bổng cấp cho sinh viên Việt Nam sang Hung-ga-ri học tập từ năm học 2018 – 2019.

        - Nhân chuyến thăm Hung-ga-ri của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (9/2018), hai Bên đã ký Chương trình hợp tác trong lĩnh vực giáo dục năm 2019 – 2021.

         

V. CÁC LĨNH VỰC KHÁC

1.  Lãnh sự: Công dân Việt Nam mang hộ chiếu ngoại giao/công vụ được miễn thị thực nhập cảnh vào Hung-ga-ri và ngược lại.                                                                                    

2.  Hợp tác địa phương: Quận Tây Hồ, Hà Nội đã kết nghĩa với quận 16 của Bu-đa-pét; thành phố Hội An kết nghĩa với thành phố Xen-ten-đơ-re (Szentendre) của Hung-ga-ri; thành phố Cần Thơ kết nghĩa với Chính quyền thành phố Ca-pốt-va của Hung-ga-ri (9/2017).

3.  Khoa học công nghệ: Hai bên đã ký Hiệp định Hợp tác khoa học - công nghệ và Hiệp định hợp tác về Môi trường để tạo khuôn khổ cho hợp tác song phương trong các lĩnh vực này.

 

VI. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI HUNG-GA-RI

Cộng đồng người Việt Nam tại Hung-ga-ri hiện có khoảng trên 4.000 người, sống tập trung chủ yếu tại Bu-đa-pét, kinh doanh hàng may mặc tại các chợ, trung tâm thương mại châu Á, cuộc sống tương đối ổn định, hình ảnh người Việt ở sở tại khá tốt. Bà con luôn đoàn kết và hướng về Tổ quốc.

 

 

VII. CÁC HIỆP ĐỊNH KHUNG ĐÃ KÝ GIỮA HAI NƯỚC

-         Hiệp định Tránh đánh thuế trùng;

-         Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư;

-         Hiệp định Tương trợ tư pháp;

-         Hiệp định Hợp tác chống tội phạm có tổ chức;

-         Hiệp định Hợp tác kinh tế;

-         Hiệp định khung về Hợp tác phát triển;

-         Hiệp định Hợp tác nông nghiệp;

-         Hiệp định Hợp tác khoa học - công nghệ;

-         Thoả thuận Hợp tác giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ Kinh tế - Giao thông Hung-ga-ri;

-         Nghị định thư hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao;

-         Hiệp định hợp tác về Môi trường;

-         Bản ghi nhớ giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và Bộ Tư pháp và thực thi pháp luật Hung-ga-ri về nhập cư và quốc tịch;

-         Bản ghi nhớ về hợp tác Quốc phòng giữa hai bộ Quốc phòng Việt Nam – Hung-ga-ry;

-         Hiệp định khung về Hợp tác năng lượng.

-         Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Hung-ga-ri về dẫn độ tội phạm

-         Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa CHXHCN Việt Nam và Hungary.

-         Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Hung-ga-ri về chuyển giao người bị kết án phạt tù

-         Thỏa thuận Hợp tác đào tạo, nghiên cứu, pháp quy và kỹ thuật trong sử dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hung-ga-ri

-         Thỏa thuận hợp tác giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hung-ga-ri trong lĩnh vực quản lý nước

-         Bản Ghi nhớ về hợp tác giữa Bộ Y tế Việt Nam và Bộ Nguồn nhân lực Hung-ga-ri

-         Bản Ghi nhớ về hợp tác giữa Bộ Y tế Việt Nam và Bộ Sáng tạo và Công nghệ Hungary.

-         Thỏa thuận hợp tác trong lĩnh vực thể dục, thể thao

-         Hiệp định khung về hợp tác tín dụng trị giá 440 triệu EUR giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hung-ga-ri

-         Hiệp định khung về hợp tác tín dụng trị giá 60 triệu EUR giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Hung-ga-ri nhằm triển khai Dự án Xây dựng Bệnh viện Ung bướu thành phố Cần Thơ.

 

VIII. Địa chỉ Đại sứ quán, Lãnh sứ quán của hai nước

1. Đại sứ quán Việt Nam tại Hung-ga-ri

1146 Budapest – Thokoly Ut 41, Hung-ga-ri

Tel. 0036-1-3425583, 3429922, 3433836; Fax: 0036-1-352 8798

Email: vp-budapest@mofa.gov.vn, vp_budapest@yahoo.vn

 

2. Đại sứ quán Hung-ga-ri tại Việt Nam

Tel: 04-37715714/5; Fax: 04-37715716.

 

 

                                                                    Tháng 4/2019               
 
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn 
Hiển thị tốt nhất với Internet Explorer. Best viewed with Internet Explorer

EMC Đã kết nối EMC