Thông tin cơ bản về Phần Lan và Quan hệ Việt Nam - Phần Lan
TÀI LIỆU CƠ BẢN CỘNG HÒA PHẦN LAN
PHẦN I: THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ NƯỚC CỘNG HÒA PHẦN LAN
I. ĐỊA LÝ, DÂN SỐ, VĂN HÓA, XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ
- Địa lý: Nằm trong khu vực Bắc Âu, phía Đông và Đông Nam giáp Nga, phía Bắc giáp Na Uy, phía Tây giáp Thuỵ Điển, phía Nam và Tây Nam là vịnh Phần Lan, biển Ban-tích (Baltic) và vịnh Bốt-ni-a (Bothnia). - Thủ đô: Hen-xin-ki (Helsinki), dân sô 600 nghìn (nếu tính cả các thành phố liên kề Espoo, Vantaa và Kaunianen thì dân số khoảng trên 1 triệu dân) - Ngày Quốc khánh: 06/12/1917 (Ngày tuyên bố độc lập) - Diện tích: 338.145 km2 (đứng thứ 65 thế giới), trong đó rừng chiếm 69%, đất canh tác 8%. Phần Lan có khoảng 190.000 hồ (từ 500 m2 trở lên), chiếm gần 10% diện tích và gần 180.000 hòn đảo (trong đó gần 100.000 hòn đảo ở trong đất liền). - Dân số:(2011) trên 5,4 triệu người (đứng thứ 116 thế giới), bình quân 16 người/km2, trong đó 93,4% là người Phần Lan, 5,6% là người Thụy Điển, 0,5% là người Nga và 0,3% là người Estonia. 65% sống ở thành thị. Tỷ lệ tăng dân số: 0,5%/năm. - Ngôn ngữ: là nước sử dụng chính thức hai ngôn ngữ, tiếng Phần Lan và tiếng Thụy Điển, trong đó 93,4% số dân sử dụng tiếng Phần Lan và 5,6% sử dụng tiếng Thuỵ Điển. Ngoài ra còn tiếng Nga và tiếng Sami. - Khí hậu: Rất lạnh vào mùa đông (ngày lạnh nhất: âm 30 độ tại Helsinki, âm 40 độ tại Lapland) và ấm vào mùa hè (15-30 độ tại Helsinki). Tại cực bắc, vào mùa hè “đêm trắng – white nights”, mặt trời không lặn khoảng 10 tuần và vào mùa đông, mặt trời không mọc khoảng 8 tuần. - Tôn giáo: 81% theo đạo Tin lành dòng Lu-thơ và 2% theo đạo Cơ đốc chính thống (Orthodox). - Lãnh đạo chủ chốt: + Tổng thống: Ông Xau-li Ni-nít-xtô (Sauli Niinisto), nhậm chức 1/3/2012 + Thủ tướng: Ông Duy-ki Ta-pa-ni Ka-tai-nen (Jyrki Tapani Katainen), Chủ tịch đảng Liên minh dân tộc, nhập chức từ 6/2011 + Bộ trưởng Ngoại giao: Ông E-ki Tua-mi-ô-ja (Erkki Tuomioja)
|
|
II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ
8500 năm trước CN |
Đã có người đến sinh sống ở Phần Lan. |
1155-1809 |
Phần Lan bị Thụy Điển cai trị, trong năm 1696-1697 đã xảy ra nạn đói nghiêm trọng làm cho khoảng một phần ba dân Phần Lan bị chết. 1714-1721 và 1742-1743 xảy ra các cuộc chiến tranh giữa Thụy Điển và Nga dẫn đến việc Phần Lan bị Nga chiếm. |
1809-1917 |
Phần Lan bị Nga cai trị. Nạn đói năm 1866-1868 làm chết 15% dân số Phần Lan. |
6/12/1917 |
Phần Lan tuyên bố độc lập (ngày này được lấy làm Quốc khánh của Phần Lan hiện nay) |
1919 |
Theo Hiến pháp được thông qua, Phần Lan trở thành nước Cộng hòa |
1930-40 |
Sau khi bị Liên Xô tấn công, Phần Lan đã tiến hành cuộc Chiến tranh mùa đông (Winter War) với nước này. Năm 1940, Phần Lan thất bại và phải ký hoà ước với Liên Xô. |
1941-44 |
Sau khi Đức tấn công Liên Xô, Phần Lan đã liên minh với Đức tiến hành cuộc Chiến tranh thứ hai với Liên Xô (Continuation War). Tháng 7/1944 Phần Lan đã đạt được thỏa thuận đình chiến với Liên Xô. Kết quả hai cuộc chiến tranh trên là Phần Lan đã phải nhượng 10% lãnh thổ cho Liên xô (vùng Kerelia, Salla và Petsamo) và 20% ngành công nghiệp bao gồm các hải Cảng Vyborg và Liinakhamari. Thiệt hại con người 93.000 lính. |
1944-45 |
Phần Lan tiến hành cuộc chiến tranh Lapland để đuổi quân Đức ra khỏi miền Bắc nước này. |
1948 |
Phần Lan ký Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Giúp đỡ lẫn nhau với Liên Xô đồng thời thực hiện chính sách trung lập, đứng ngoài vòng tranh chấp của các siêu cường. |
14/12/1955 |
Phần Lan gia nhập LHQ |
1995 |
Phần Lan gia nhập Liên hiệp Châu Âu |
1999 |
Phần Lan gia nhập khối đồng tiền chung Châu Âu |
2002 |
Đồng tiền Euro thay tiền Phần Lan Markka |
III. THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC, CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ, ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ
Phần Lan là một nhà nước phúc lợi xã hội hiện đại, trong đó rất coi trọng chất lượng giáo dục (chi 5,9% GDP), bình đẳng và an sinh xã hội.
1. Thể chế và tổ chức bộ máy nhà nước
a/ Thể chế nhà nước:
- Hiến pháp Phần Lan ban hành ngày 17/7/1917, thông qua năm 1919 và được sửa đổi năm 2000 và năm năm 2011 quy định Phần Lan theo chế độ Cộng hoà tam quyền phân lập. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội. Quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và Chính phủ.
- Người đứng đầu nhà nước là Tổng thống, được bầu theo chế độ phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ 6 năm và chỉ được làm tối đa 02 nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống phối hợp với Chính phủ phụ trách đối ngoại, trừ quan hệ với EU (do Thủ tướng phụ trách); các quyền hành khác bao gồm tổng tư lệnh lực lượng vũ trang và có quyền ban hành sắc lệnh và bổ nhiệm cán bộ. Khi có bất đồng giữa Tổng thống và Thủ tướng thì Quốc hội sẽ có tiếng nói quyết định.
b/ Cơ quan lập pháp: có một viện với 200 nghị sĩ, nhiệm kỳ 4 năm, được bầu theo phổ thông đầu phiếu.
Quốc hội có thể sửa đổi hiến pháp, luật và phủ quyết các quyết định của Tổng thống. Quốc hội không bị tòa án phán xét. Trong quốc hội, hiện đại biểu nữ chiếm 43%.
- Danh sách các đảng có chân trong Quốc hội theo cuộc bầu cử tháng 4/2011.
STT |
Các đảng trong QH |
% phiếu bầu |
Số ghế trong QH |
1 |
Đảng Liên minh Dân tộc |
20,40 |
44 |
2 |
Đảng Dân chủ xã hội (SPD) |
19,10 |
42 |
3 |
Đảng Người Phần Lan thực sự |
19,00 |
39 |
4 |
Đảng Trung tâm |
15,80 |
35 |
5 |
Liên minh cánh tả |
|
14 |
6 |
Đảng Xanh |
|
10 |
7 |
Đảng nhân dân Thụy Điển |
|
9 |
8 |
Đảng Dân chủ thiên chúa |
|
6 |
9 |
Tỉnh tự trị Aland |
|
1 |
c/ Cơ quan hành pháp: gồm chính quyền trung ương và chính quyền địa phương
- Chính quyền trung ương: Chính phủ nhiệm kỳ 4 năm, hiện do do ông Jyrki Tapani Katainen, Chủ tịch Đảng Liên minh dân tộc làm Thủ tướng từ tháng 6/2011. Chính phủ liên hiệp 6 đảng gồm có 19 bộ trưởng và 12 bộ (danh sách kèm theo).
- Chính quyền địa phương: Phần Lan được chia thành 19 vùng (region) và 01 khu tự trị (Aland), 74 tiểu vùng (sub-region) và 342 thị trấn (municipality). Bầu cử địa phương được thực hiện 4 năm 1 lần để bầu ra lãnh đạo tại 16 tỉnh thành với sự tham gia của tất cả các đảng phái chính trị tại Phần Lan.
d/ Hệ thống luật pháp và tư pháp:
- Phần Lan có hệ thống luật pháp tương tự như Thụy Điển. Tổng thống có thể yêu cầu Tòa án tối cao xem xét lại các điều luật.
- Phần Lan có hệ thống tòa án xét xử các vụ hình sự và dân sự (gồm 03 cấp: district courts, courts of appeal và supreme court) và các tòa án hành chính.
2. Các đảng phái chính trị lớn:
2.1. Đảng XHDC (SPD): thành lập năm 1899 với tên gọi là Đảng Lao động; năm 1903 Đảng đổi tên thành Đảng Xã hội dân chủ. Đảng đại diện cho tầng lớp công nhân, trí thức, tiểu chủ và nền tảng tư tưởng của Đảng là dân chủ xã hội. Chủ tịch hiện nay của đảng là bà Jút-ta Pau-li-na U-pi-lai-nen (Jutta Pauliina Urpilainen), hiện là Bộ trưởng Tài chính. Cương lĩnh của đảng ôn hòa và ủng hộ việc cải thiện điều kiện sống của những người làm công ăn lương. Đảng có quan hệ chặt chẽ với phong trào công đoàn; trong giai đoan 1944-1949, Đảng cạnh tranh quyết liệt với những người cộng sản để kiểm soát các tổ chức công đoàn.
Đảng là một trong ba đảng lớn nhất ở Phần Lan với hơn 50 nghìn đảng viên; các vị lãnh đạo của Đảng đã ba lần làm Tổng thống và liên tục nắm giữ cương vị này từ 1982 đến 2012. Trong Quốc hội, năm 1916 Đảng giành được 103/200 ghế; hiện nay Đảng nắm 42 ghế và tham gia Chính phủ liên hiệp.
2.2. Đảng Trung tâm: thành lập năm 1906, đại diện quyền lợi các cộng đồng ở nông thôn. Nền tảng tư tưởng của Đảng ủng hộ phi tập trung quyền lực chính trị ở trung ương vì sự tự do của nông dân nghèo và ủng hộ “nền song xanh”. Từ 1965 trở về trước đảng mang tên Liên đoàn nông dân (Agrarian League). Để giành được sự ủng hộ lớn hơn ở thành thị, tháng 10/1965, đảng đã đổi tên đảng Trung tâm.
Là một trong các đảng lớn nhất ở Phần Lan. Các vị lãnh đạo của Đảng đã làm tổng thống ba lần và làm thủ tướng 12 lần. Chủ tịch đảng hiện nay là bà Ma-ri Ki-vi-ni-e-mi. Đảng có 160 nghìn đảng viên. Hiện nay Đảng có 35 ghế trong Quốc hội nhưng không tham gia Chính phủ.
2.3. Đảng Liên minh dân tộc hay còn gọi là Đảng Bảo thủ: thành lập 1918. Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa tự do, dân chủ và bình đẳng. Đảng có khoảng 41 nghìn đảng viên. Chủ tịch đảng là ông Gi-ki Ta-pa-ni Ka-tai-nen (Jyrki Tapani Katainen). Uy tín của Đảng trong những năm gần đây tăng khá nhanh. Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 2011, Đảng giành được nhiều ghế nhất (44/200 ghế); Đảng giành được sự ủng hộ mạnh mẽ ở các thành phố phía Nam, các nhà doanh nghiệp và giới trẻ. Đến nay lãnh đạo của Đảng đã 7 lần làm thủ tướng và 3 lần làm tổng thống. Tổng thống và Thủ tướng hiện nay là lãnh đạo của Đảng.
2.4. Đảng Người Phần Lan thực sự (True Finns): thành lập năm 1995, đại diện cho những người Phần Lan dân tộc chủ nghĩa, hoài nghi về Liên hiệp châu Âu, hạn chế việc nhập cư. Chủ tịch Đảng là ông Timo Soini.
2.5. Liên minh Cánh tả: thành lập năm 1990. Nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa xã hội sinh thái (eco-socialism), trong đó nhấn mạnh dân chủ, bình đẳng, tự do và phát triển bền vững. Chủ tịch Đảng là ông Paavo Arhinmaki (hiện là Bộ trưởng Văn hóa & Thể thao). Từ ngày thành lập, Đảng luôn luôn có đại biểu trong Quốc hội, hiện nay bạn có 14/200 ghế. Uy tín và vai trò của Đảng tương đối khá.
IV. GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ
Từ một nước bị tàn phá sau chiến tranh và phải trả một khoản bồi thường chiến tranh lớn giữa những năm 1940, Phần Lan đã tập trung vào xây dựng đất nước và đã vươn lên trở thành một trong những nền kinh tế công nghiệp hóa cao có sức cạnh tranh hàng đầu thế giới.
Kinh tế Phần Lan dựa vào xuất khẩu, chiếm hơn 1/3 GDP trong những năm gần đây.
Do ít tài nguyên nên công nghiệp Phần Lan phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu nguyên liệu thô, nhiên liệu và phụ tùng. Các ngành công nghiệp mũi nhọn có chuyên môn hoá cao như điện thoại di động, điện tử, viễn thông, công nghiệp gỗ giấy, đóng tàu và vận tải...
Về nông nghiệp, do khí hậu khắc nghiệt nên không thuận lợi cho việc canh tác; nông nghiệp chỉ cung cấp được một số sản phẩm cơ bản trong nước như lúa mạch, lúa mỳ, củ cải đường, khoai tây, sữa, cá…. Số nông trang: 73.078, số đầu gia súc: 1 triệu.
Về lâm nghiệp, với 69% diện tích là rừng (26,3 triệu hectares), ngành này phát triển mạnh và là nguồn xuất khẩu quan trọng. Rừng tư nhân chiếm 53%, nhà nước 34%, công ty 8% và khác 5%.
Về tài chính, Phần Lan là một trong những nước có nền tài chính ổn định và minh bạch nhất trong EU.
Thách thức lâu dài đối với kinh tế Phần Lan: dân số già nhanh và năng xuất lao động giảm dẫn đến sức cạnh tranh giảm đi và tăng trưởng chậm lại.
Cơ cấu kinh tế năm 2011: nông nghiệp 2,8%, công nghiệp 29,2% và dịch vụ 68%.
- Chính sách HTPT: Phần Lan luôn coi trọng chính sách viện trợ và hợp tác phát triển, coi đây là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình. Thông qua viện trợ phát triển, Phần Lan mong muốn hỗ trợ các nước nghèo cải thiện điều kiện kinh tế xã hội, qua đó tăng cường khả năng thu hút đầu tư và thương mại của các nước này (“aid for trade”), hướng tới xoá bỏ tình trạng nghèo đói trên thế giới. Ngày 18/10/2007, Chính phủ Phần Lan đã thông qua Chương trình chính sách phát triển (Development Policy Programme) mới với chủ đề “Toward a Sustainable and Just World Community”(Hướng tới một cộng đồng thế giới công bằng và bền vững). Mục tiêu chính của chính sách phát triển mới này là xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững phù hợp với các mục tiêu Thiên Niên kỷ.
Năm 2010, viện trợ phát triển của Phần Lan chiếm 0,55 % GDP. Phần Lan cam kết tăng viện trợ phát triển lên 0,58% GDP năm 2011 và 0,7% GDP năm 2015.
Hiện nay, hợp tác phát triển của Phần Lan tập trung vào 7 nước đối tác chính gồm: Mozambique, Tanzania, Ethiopia, Zambia, Kenia ở châu Phi; Việt Nam và Nepal ở châu Á.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Rút ra được những bài học kinh nghiệm từ quá khứ của lịch sử, trong nhiều thập kỷ qua, Phần Lan luôn theo đuổi đường lối đối ngoại trung lập tích cực; giữ cân bằng trong quan hệ với các nước lớn, các khối; không tham gia các khối quân sự; ủng hộ và thúc đẩy cho các hoạt động vì hoà bình, giải trừ quân bị, làm giảm căng thẳng tình hình quốc tế; ủng hộ đối thoại giữa các nước và khu vực.
Hiện nay, Phần Lan đang tham gia vào chương trình Đối tác vì Hoà bình (Partnership for Peace) với NATO và vẫn để ngỏ cửa cho việc tham gia NATO (tuy nhiên phần lớn dân Phần Lan muốn tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại trung lập). Chính phủ Phần Lan cũng chú trọng phát triển quan hệ với châu Á, nhất là với các nền kinh tế đang nổi lên để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Phần Lan thâm nhập thị trường, phát triển hoạt động đầu tư kinh doanh.
Phần Lan ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng Bắc Âu, các nước EU, Nga, Mỹ, Trung Quốc và các nước Ban-tích.
PHẦN II: QUAN HỆ VIỆT NAM-PHẦN LAN
I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO
Phần Lan công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 28/12/1972 và lập quan hệ ngoại giao ngày 25/01/1973; từ đó đến nay Phần Lan luôn duy trì chính sách hợp tác, hữu nghị với Việt Nam. Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội được thành lập năm 1974. Việt Nam mở Đại sứ quán tại Helsinki vào cuối năm 2005.
Quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước đã và đang phát triển tích cực. Thời gian qua, hai bên đã thường xuyên trao đổi đoàn cấp cao, gần đây nhất là:
Lãnh đạo cấp cao Phần Lan thăm Việt Nam:
- Tổng thống Phần Lan Tarja Halonen tháng 2/2008
- Thủ tướng Phần Lan Matti Vanhanen tháng 11/2009 và dự HNCC ASEM-5 tháng 10/2004.
- Chủ tịch Quốc hội Phần Lan Sauli Niinisto tháng 1/2010
Lãnh đạo cấp cao Việt Nam thăm Phần Lan:
- Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 5/2010
- Các Thủ tướng: Phạm Văn Đồng 5/1977, Võ Văn Kiệt 6/1995, Phan Văn Khải 9/1999, Nguyễn Tấn Dũng 9/2006 (dự HNCC ASEM-6)
Ngoài ra, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Thủ tướng Phần Lan Jyrki Katainen bên lề HN ASEM 9 tại Lào tháng 11/2012.
II. HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI – ĐẦU TƯ
1. Thương mại:
Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Phần Lan từ năm 2005 - 2011:
|
2005 |
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
2011 |
XK |
57,2 |
68,9 |
92,5 |
134 |
149,2 |
150 |
163 |
NK |
42,7 |
82,3 |
78,5 |
105 |
79,5 |
85 |
87 |
Tổng |
99,9 |
151,2 |
171 |
239 |
228,7 |
235 |
250 |
(Đơn vị triệu USD; Nguồn: Hải quan Việt Nam & Phần Lan)
Hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư hiện là lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của Phần Lan trong quan hệ với Việt Nam. Theo kết quả khảo sát gần đây của Hiệp hội doanh nghiệp Phần Lan, Việt Nam là thị trường châu Á đứng thứ hai (sau Trung Quốc và trên Ấn Độ) được doanh nghiệp Phần Lan quan tâm.
Kim ngạch thương mại Việt Nam – Phần Lan có xu hướng tăng lên nhưng mức độ còn khiêm tốn do Phần Lan là thị trường nhỏ và không là nơi trung chuyển của châu Âu. Mục tiêu phấn đấu của hai nước là đưa kim ngạch thương mại hai chiều lên 1 tỷ USD trong những năm tới. Hiện Phần Lan đã mở Văn
Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Phần Lan gồm: giầy dép các loại, hàng dệt may, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm gỗ, cà phê, cao su, xe đạp và phụ tùng xe đạp... Việt Nam nhập khẩu từ Phần Lan máy móc thiết bị, phương tiện thông tin truyền thông (chiếm từ 80 – 85% kim ngạch), nguyên phụ liệu dệt may da, chất dẻo nguyên liệu, thiết bị điện và phụ tùng, sắt thép các loại...
Phần Lan ủng hộ việc EU trao cho ta Quy chế Kinh tế thị trường, không ủng hộ việc áp đặt thuế chống bán phá giá lên giày mũ da ta xuất vào EU.
2. Đầu tư:
Đến 3/2011, Phần Lan đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn trên 60 triệu USD, đứng thứ 50 trong tổng số 88 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Tháng 3/2011, Nokia đã quyết định đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất điện thoại tại Bắc Ninh với số vốn ban đầu 200 triệu Euro (Sau này bạn có thể tăng vốn lên tới 2,5 tỷ USD).
Từ năm 2003, Đại sứ quán Phần Lan tại Hà Nội quản lý 1 quỹ địa phương trị giá 500.000 Euro/năm do Đại sứ quyết định cho từng dự án nhỏ và vừa với quy mô khoảng từ 30.000 Euro đến 50.000 Euro cho mỗi dự án.
Tính đến thời điểm hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư sang Phần Lan.
III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN
1. Viện trợ không hoàn lại
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1973, Phần Lan liên tục hỗ trợ ta và “không áp đặt các điều kiện về chính trị trong chính sách viện trợ”. Phần Lan đã xoá nợ trên 40 triệu USD cho Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam là một trong 7 nước (một trong 2 nước ở châu Á) được chọn là đối tác lâu dài về hợp tác phát triển của Phần Lan.
Các lĩnh vực ưu tiên trong HTPT của Phần Lan tại Việt Nam bao gồm: xóa đói giảm nghèo, lâm nghiệp, nước sạch và vệ sinh, khoa học công nghệ. Tính đến 2010, ODA Phần Lan cho Việt Nam đạt gần 400 triệu USD. Các dự án do Phần Lan hỗ trợ nói chung đều mang lại hiệu quả cao.
Tại hội nghị CG tháng 12/2011, Phần Lan cam kết viện trợ 35,37 triệu USD. Phần Lan cũng đang xem xét điều chỉnh định hướng ODA cho phù hợp với nhu cầu của Việt Nam, chuyển dần sang các lĩnh vực hợp tác mới như: chính sách lao động và công nghiệp, chính sách thương mại, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, năng lượng và công nghệ sạch. Ngoài ra, Phần Lan sẽ tập trung hỗ trợ hợp tác khu vực sông Mê-kông.
Trong bối cảnh kinh tế Phần Lan phục hồi chậm trong năm 2009 và tiếp tục đà phục hồi vào năm 2010, Phần Lan phải cắt giảm chi tiêu của Chính phủ (47 triệu Euro) và cắt giảm tiền viện trợ cho các nước nghèo (80 triệu Euro), nhưng đối với Việt Nam, Phần Lan vẫn thực hiện nghiêm túc và hiệu quả các cam kết về vấn đề này.
Ngoài kênh hợp tác song phương, Phần Lan cũng trợ giúp cho Việt Nam thông qua các tổ chức đa phương như EC, LHQ; các tổ chức tài chính quốc tế như ADB, WB; các tổ chức phi chính phủ và các chương trình hợp tác khu vực của Ủy ban sông Mê-kông, AITCV, ILO…
Một số chương trình và dự án điển hình về viện trợ phát triển của Phần Lan cho Việt Nam:
- Dự án sửa tàu Phà Rừng gần Hải Phòng 1979-1981 : 46 triệu Euro
- Dự án cung cấp nước Hà Nội 1985-2001 : 86 triệu Euro
- Dự án cấp và thoát nước Hải Phòng 1990-2004 : 24 triệu Euro
- Chương trình Phát triển nông thôn tổng hợp Quảng Trị và Thừa Thiên Huế
- Chương trình cấp nước tại thành phố Hải Phòng
- Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam-Phần Lan, gọi tắt là IPP
2. Vốn vay tín dụng ưu đãi
Bên cạnh nguồn viện trợ không hoàn lại, Phần Lan cũng cung cấp tín dụng ưu đãi cho Việt Nam. Việc cấp tín dụng sẽ được thực hiện thông qua các hiệp định tín dụng khung ký giữa Bộ Tài chính và các ngân hàng Phần Lan.
Phần Lan cấp tín dụng ưu đãi tổng cộng khoảng 200 triệu USD cho các dự án tại Việt Nam. Theo chương trình phát triển mới, Phần Lan chấm dứt tín dụng ưu đãi cho ta, tuy nhiên vẫn tiếp tục nhận danh mục các dự án đề xuất sử dụng tín dụng ưu đãi của PL cho đến ngày 1/6/2012.
IV. GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO, VĂN HÓA
1. Hợp tác giáo dục:
Tháng 11/2006, Bộ Ngoại giao Phần Lan đã quyết định đưa Việt Nam (là nước duy nhất ở Châu Á) vào danh sách nước được nhận tài trợ giai đoạn 2 của Chương trình trao đổi giáo dục Bắc-Nam-Nam (North-South-South Higher Education Institution Network Programme) với tổng vốn 4,5 triệu Euro.
Trong chuyến thăm Phần Lan của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân tháng 2/2009, hai bên đã ký Thỏa thuận khung về hợp tác giáo dục-đào tạo, theo đó, Phần Lan sẽ giúp ta đào tạo tiến sỹ trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, y tế, môi trường, lâm ngư nghiệp...
Hiện nay có khoảng 700 sinh viên từ Việt Nam sang Phần Lan du học dưới dạng tự túc (Phần Lan chưa thu học phí nên sinh viên nước ngoài chỉ phải trả tiền ăn, ở và chi tiêu cá nhân). Riêng năm 2010 có 160 em và năm 2011 có 250 em sang học. Đại đa số sinh viên theo học các ngành quản trị kinh doanh, công nghệ thông tin và du lịch, vì các ngành này học bằng tiếng Anh.
2. Hợp tác văn hóa: Mặc dù hai nước chưa ký thỏa thuận, chương trình hợp tác về văn hóa nghệ thuật nhưng trong những năm trở lại đây, tình hình hợp tác trao đổi văn hóa – nghệ thuật giữa Việt Nam và Phần Lan đã được tăng cường và thúc đẩy, nhiều hoạt động trao đổi văn hóa đã được thực hiện:
+ Nhà XB Văn học phối hợp với Quỹ Juminkeko xuất bản cuốn sử thi Con cháu Mon Mân 11/2008.
+ Việt Nam dự liên hoan phim quốc tế Tampere 3/2009
+ Đoàn âm nhạc và triển lãm Phần Lan cùng với đoàn thị trưởng dự kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội 2011.
+ Triển lãm tranh nghệ thuật VN hiện tại Helsinki 9/2011
+ Ngoài ra hai bên còn trao đổi nhiều đoàn nghệ thuật, triển lãm khác.
V. CÁC LĨNH VỰC KHÁC:
1. An ninh - Quốc phòng:
Trong nhiều năm qua, quan hệ hợp tác giữa hai nước đã có những bước tiến tích cực, nhất là trong việc trao đổi tình hình, chia sẻ kinh nghiệm, phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ giữa hai Bộ về hợp tác trong lĩnh vực đấu tranh PCTP vào tháng 9/2010.
2. Lao động:
Do dân số già nhanh nên Phần Lan sẽ ngày càng thiếu lao động và cần phải tuyển thêm lao động nước ngoài. Đây là thị trường lao động có triển vọng cho các nước, nhất là các nước EU (chính sách của bạn là sau người Phần Lan, bạn ưu tiên cho các nước EU).
Ngày 26-28/03/2008, Bộ trưởng Lao động Phần Lan Ta-gia Cờ-rôn-bua (Tarja Cronberg) đã thăm và làm việc với Bộ LĐTBXH nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực lao động trong bối cảnh Phần Lan có kế hoạch nới lỏng việc tiếp nhận lao động từ bên ngoài để giải quyết vấn đề thiếu lao động trong nước.
Trong chuyến thăm Việt Nam tháng 11/2009 của Thủ tướng Phần Lan Mát-ti Van-ha-nen (Matti Vanhanen), Thủ tướng chính phủ 2 nước đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực chính sách lao động và công nghiệp.
3. Khoa học công nghệ:
Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam của Tổng thống Phần Lan tháng 2/2008, hai bên đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác KH&CN Việt Nam - Phần Lan thay thế cho Bản ghi nhớ đã ký năm 1995. Trên tinh thần của Bản ghi nhớ, hai bên đã xây dựng "Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam-Phần Lan" (IPP) với sự hỗ trợ không hoàn lại của Phần Lan trị giá 3 triệu USD. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, hiện nay công ty Viễn thông Nokia đã và đang hoạt động kinh doanh hiệu quả trên thị trường Việt Nam.
4. Du lịch:
Việt Nam là điểm du lịch tương đối hấp dẫn đối với khách du lịch Phần Lan. Vào mùa đông giá lạnh ở Phần Lan, khí hậu ấm áp của miền Trung và miền Nam nước ta đã thu hút nhiều khách Phần Lan. Vào thời điểm này, một số công ty du lịch Phần Lan đã thuê chuyên cơ hai tuần một chuyến chở khách du lịch từ Helsinki sang TP Hồ Chí Minh.
Từ năm 2005, Việt Nam đã đơn phương miễn visa 15 ngày cho công dân Phần Lan và các nước Bắc Âu khác.
Khách du lịch Phần Lan vào Việt Nam năm 2011 đạt khoảng 11.000 khách.
VI. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI PHẦN LAN
Cộng đồng người Việt Nam tại Phần Lan hiện có khoảng trên 5.000 người, trong đó khoảng một nửa đã được nhập quốc tịch Phần Lan; số còn lại đã được cấp phép cư trú lâu dài. Đa số người Việt Nam sang Phần Lan trong những năm 1980 dưới hình thức vượt biên; một số ít đi theo đường đoàn tụ gia đình, kết hôn. Nhìn chung, đa số người Việt tại Phần Lan đều chăm chỉ tập trung làm ăn và luôn hướng về Tổ quốc; tuy nhiên còn một số ít vẫn sống nhờ trợ cấp xã hội. Chính giới Phần Lan đánh giá cao tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo của người Việt Nam và những đóng góp hiệu quả đối với nước sở tại.
Hội Người Việt Nam tại Phần Lan đã được thành lập vào tháng 6/2007 và tổ chức nhiều hoạt động như sinh hoạt văn hoá, văn nghệ cộng đồng, dạy tiếng Việt cho thanh thiếu niên, hỗ trợ tư vấn pháp lý trong cộng đồng, hoạt động từ thiện, hướng về nguồn… Ngày 01/11/2008, Hội sinh viên, thanh niên Việt Nam tại Phần Lan đã được thành lập, quy tụ cả sinh viên du học và thanh niên, sinh viên Việt kiều tại Phần Lan.
VII. CÁC HIỆP ĐỊNH, THỎA THUẬN ĐÃ KÝ KẾT
1. Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký 21/2/2008
2. Hiệp định về hỗ trợ tài chính cho Quỹ Ủy thác ngành Lâm nghiệp ký 21/2/2008
3. Hiệp định về dự án hỗ trợ kỹ thuật quản lý chương trình 135 giai đoạn II ký 12/6/2008
4. Bản Ghi nhớ về hợp tác giáo dục-đào tạo ký 05/2/2009
5. Hiệp định về hợp tác trong chương trình nước và vệ sinh tại các thị trấn ở VN giai đoạn II ký 20/8/2009
6. Bản Ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực chính sách lao động và công nghiệp ký 16/11/2009
7. Bổ sung Hiệp định về việc Phần Lan ủng hộ tài trợ cho chương trình phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi cực kỳ khó khăn giai đoạn 2007-2010, ký 20/5/2010.
Tháng 12 năm 2012
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail |