Trang chủ     Đăng ký nhận tin    Ý kiến bạn đọc   Liên kết website English 
Thứ hai, ngày 17 tháng 03 năm 2025 Tìm kiếm
 Tìm kiếm nâng cao

THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ VƯƠNG QUỐC THỤY ĐIỂN VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM - THỤY ĐIỂN


                               TÀI LIỆU CƠ BẢN THỤY ĐIỂN

 

I. Thông tin cơ bản:

-         Tên nước: Vương quốc Thụy Điển

-         Thủ đô: Xtốc-khôm (Stockholm) khoảng trên 1.5 triệu dân số (kể cả ngoại ô) Ngày Quốc khánh: 6/6 (Ngày lễ cờ - trước đây lấy ngày sinh của Vua).

-         Vị trí địa lý: Nằm trên bán đảo Xờ-can-đi-na-vi, Tây và Bắc giáp Na Uy, Đông giáp Phần Lan, Nam giáp biển Ban-tích và Đan Mạch.

-         Diện tích: 449.964 km2. Rừng chiếm 228.000 km2, hồ 39.000 km2 và đất canh tác chiếm 30.000 km2. Mật độ dân số 21 người / km2.

-         Khí hậu: Tuy nằm ở gần Bắc cực, nhưng do ảnh hưởng của hải lưu nóng Gulf Stream nên khí hậu tương đối ôn hòa. Mùa hè nhiệt độ trung bình từ 150C - 170C. Mùa Đông ở miền Bắc trung bình -140C, miền Nam    -10C.

-         Dân số: Khoảng 9,4 triệu người, trong đó 1,2 triệu là người nước ngoài nhập cư.

-         Dân tộc: Người Thụy Điển chiếm 81,9%, người Phần Lan khoảng 5%, các nhóm dân tộc khác là 13%, trong đó người Láp (còn gọi là người Sam) có khoảng 150.000 người.

-         Ngôn ngữ: Tiếng Thụy Điển. Ngoại ngữ thông dụng nhất là tiếng Anh.

-         Tôn giáo: Đạo Tin lành dòng Lu-thơ chiếm 85% dân số, còn lại là các tôn giáo khác.

-         Lãnh đạo chủ chốt:

Nhà Vua Carl XVI Gustaf (Can Gút-xtáp 16, lên ngôi ngày 15/9/1973). Thủ tướng Fredrik Reinfeldt (Phê-đờ-ríc Rên-phen, Chủ tịch Đảng Ôn hòa, được bổ nhiệm từ 6/10/2006 và tái đắc cử nhiệm kỳ 2 tháng 10/2010). Chủ tịch Quốc hội Ông Per Westerberg (Pờ Oét-tờ-bua, Đảng Ôn hòa, được bổ nhiệm tháng 10/2006, tái bổ nhiệm tháng 10/2010). Bộ trưởng Ngoại giao Ông Carl Bildt (Can Bin, Đảng Ôn hòa, được bổ nhiệm từ 6/10/2006, tái trúng cử tháng 10/2010).

·        Đơn vị tiền tệ: Đồng Cua-ron (SEK). Tỉ giá 1 USD = 6,3 SEK

·        GDP năm 2010 đạt khoảng 445 tỷ USD

·        Thu nhập bình quân đầu người năm 2010 khoảng 47.667 USD

 

II. Khái quát lịch sử:

 - Năm 610 Thụy Điển trở thành quốc gia thống nhất. Từ thế kỷ 9-11 là thời kỳ Viking; người Viking Thụy Điển đi chinh phục phần lớn châu Âu và làm chủ biển Ban tích.

- Từ 1160 - 1809: Thụy Điển thống trị Phần Lan.

- Từ 1370 - 1524: Thụy Điển bị Đan Mạch thống trị trong liên minh Kalmar.

- 1523: Liên minh Kalmar tan rã. Thụy Điển bước vào thời kỳ hưng thịnh với triều đại vua đầu tiên Gustaf Vasa (Gút-xờ-táp Va-sa).

- Thế kỷ 17 - 18: là thời kỳ cường quốc phong kiến Thụy Điển tiến hành chiến tranh thôn tính các nước láng giềng (Nga, Đức, Ba Lan, Đan Mạch, Phần Lan). Năm 1721, Thụy Điển bị Nga hoàng đánh bại và bị mất các vùng xung quanh Ban tích, trừ Phần Lan, chấm dứt thời kỳ cường quốc Thụy Điển. Năm 1808 - 1809 Nga gây chiến với Thụy Điển để thực hiện ý đồ thôn tính Phần Lan. Thụy Điển thua phải nhường Phần Lan cho Nga.

- 1812 Thụy Điển liên minh với Nga và Anh đánh bại Na-pô-lê-ông. Thụy Điển được chia phần Na Uy đang dưới sự cai trị của Đan Mạch vì Đan Mạch liên minh với Na-pô-lê-ông. 1905 Na Uy tách khỏi Thụy Điển thành một quốc gia độc lập. Cuộc chiến tranh cuối cùng Thụy Điển tham gia kết thúc vào 1814. Sau đó Thụy Điển thực hiện chính sách trung lập, không đứng về bên nào trong chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai.

- Ngày 19/12/1946, Thụy Điển gia nhập Liên hợp quốc, tháng 11/1959 gia nhập khối Mậu dịch tự do Châu Âu (EFTA). Ngày 1/3/ 1994, Thụy Điển và EU ký Hiệp định về việc Thụy Điển xin vào EU. Thụy Điển trở thành thành viên chính thức EU từ 1/1/1995. Thụy Điển chưa tham gia hệ thống đồng tiền chung Châu Âu (EURO).

 

III. Thể chế nhà nước, chế độ chính trị, đảng phái chính trị, Lãnh đạo chủ chốt :

1. Thể chế nhà nước và tổ chức bộ máy nhà nước:

a/ Thể chế nhà nước

Thụy Điển theo chế độ quân chủ lập hiến với hình thức chính phủ nghị viện. Vua là nguyên thủ quốc gia nhưng không tham gia chính trị và không có quyền lực chính trị mà chỉ tham gia các hoạt động có tính chất lễ nghi. Quyền lực chính trị chủ yếu thuộc Quốc hội và Chính phủ.

b/ Cơ quan lập pháp

Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất thông qua các đạo luật và các quyết định có tính chất chính sách. Hiến pháp đầu tiên được thông qua vào năm 1809 quy định việc lập ra Quốc hội 4 đẳng cấp (quý tộc, nhà thờ, thành thị và nông dân). Năm 1886 Hiến pháp được sửa đổi; lập quốc hội 2 viện: Thượng viện và Hạ viện. Năm 1971, Thụy Điển cơ cấu chế độ Thượng viện và duy trì Hạ viện hay Quốc hội (Riksdag) với 349 nghị sĩ được dân bầu thông qua phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín và đại diện đảng theo tỷ lệ phiếu bầu. Một đảng phải giành được tối thiểu 4% số phiếu bầu trong cả nước mới có đại diện trong Quốc hội. Nhiệm kỳ của Quốc hội từ 9/1994 trở về trước là 3 năm. Từ 9/1994 quy định lại là 4 năm.

Quốc hội có ít nhất 15 ủy ban chuyên trách, phụ trách các vấn đề liên quan đến Hiến pháp, ngân sách, tài chính, thuế khóa và các vấn đề chủ yếu khác của các cơ quan cấp Bộ. Quốc hội bỏ phiếu thông qua thành phần Chính phủ mới hay việc xin từ chức của một Bộ trưởng hoặc toàn bộ Chính phủ theo nguyên tắc đa số nhất trí và có quyền tổ chức bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với Thủ tướng nếu có 1/3 số nghị sỹ yêu cầu.

c/ Cơ quan hành pháp: bao gồm Chính phủ trung ương và các chính quyền địa phương.

- Chính phủ:

Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Thủ tướng là người được Chủ tịch Quốc hội đề nghị đứng ra thành lập Chính phủ mới. Thủ tướng được chỉ định tiến hành bổ nhiệm các thành viên trong chính phủ. Sau đó Quốc hội thông qua thành phần Chính phủ mới theo nguyên tắc đa số phiếu tán thành.

Chính phủ hoạt động với nhiệm kỳ 4 năm hoặc khi Thủ tướng đương nhiệm từ chức do mất tín nhiệm hoặc vì lý do cá nhân. Chính phủ có quyền đề nghị giải tán Quốc hội và tiến hành bầu cử trước thời hạn. Song Quốc hội được bầu lại chỉ tồn tại đến hết thời gian còn lại của nhiệm kỳ. Chính phủ hiện nay là Chính phủ Liên minh do Thủ tướng Phê-đờ-ríc Rên-phen, Lãnh tụ Liên minh trung hữu đứng đầu của các đảng Ôn hoà, Tự do, Trung tâm và Dân chủ thiên chúa giáo.

- Chính quyền địa phương gồm:

+ Chính quyền cấp tỉnh: cả nước có 21 tỉnh, đứng đầu mỗi tỉnh là một thống đốc do Chính phủ chỉ định.

+ Chính quyền cấp quận và thành phố: cả nước có 290 chính quyền cấp này, các hội đồng do dân bầu trực tiếp. Mỗi đảng phải đạt ít nhất 3% tổng số phiếu bầu mới có đại diện trong Hội đồng.

2. Các đảng phái chính trị:

- Đảng XHDC: thành lập 1889 và là đảng chính trị lớn nhất ở Thụy Điển. Đảng XHDC tiền thân là đại diện của các tầng lớp công nhân lao động và những người lao động lương thấp. Đảng nắm được công đoàn lớn nhất ở Thụy Điển (LO). Chủ tịch đảng hiện nay là bà Mô-na Sa-lin (Mona Sahlin).

- Đảng Cánh tả (Cộng sản cũ): Thành lập năm 1917 do cánh tả của đảng XHDC tách ra. Hiện nay đảng theo chủ nghĩa dân túy, từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng Cánh tả không tán thành việc Thụy Điển gia nhập EU và NATO. Chủ tịch đảng hiện nay là La Ô-ly (Lars Ohly từ 2004).

- Đảng Môi trường (Đảng Xanh): Thành lập năm 1981 chủ yếu từ các nhóm bảo vệ môi trường phản đối năng lượng hạt nhân. Đảng này ngày càng tranh thủ được cử tri do vấn đề bảo vệ môi trường trở thành vấn đề quan tâm của xã hội. Người phát ngôn của đảng hiện nay là Ma-ri-a Oét-tơ-stan (Maria Wetterstrand) và Pê-tơ E-ríc-sơn (Peter Erikkson).

- Đảng Bảo thủ (Ôn hòa): Thành lập năm 1904 đại diện cho quyền lợi của tầng lớp đại tư bản công nghiệp và giáo hội. Là đảng lớn thứ 2 ở Thụy Điển và là đảng cực hữu, chống chủ nghĩa cộng sản, chủ trương đưa Thụy Điển gia nhập NATO. Chủ tịch đảng hiện nay là ông Phê-đờ-ríc Rên-phen (từ 2003).

- Đảng Tự do: Thành lập năm 1902, đại diện cho tầng lớp trí thức và viên chức tiểu tư sản theo khuynh hướng trung hữu. Cùng với đảng Bảo thủ, đảng Tự do cũng chủ trương đưa Thụy Điển gia nhập NATO. Tuy nhiên, đảng có thái độ khá tích cực trong chính sách viện trợ cho các nước nghèo. Chủ tịch đảng hiện nay là ông Jan Bjorklund (Gian Bờ-gióc-lút). Ông được bầu làm Phó Thủ tướng thay bà Maud Olofsson (Mau Ô-lốp-sơn) từ 5/10/2010.

- Đảng Trung tâm: Thành lập năm 1913. Đảng Trung tâm có thái độ khá tích cực trong chính sách viện trợ cho các nước nghèo, phản đối việc Thụy Điển gia nhập EU. Chủ tịch đảng hiện nay là bà Mau Ô-lốp-sơn (từ 2001).

- Đảng Dân chủ thiên chúa giáo: Thành lập 1964, đại diện cho quyền lợi của các nhóm thiên chúa giáo và bảo vệ các ý tưởng của tôn giáo về nhân phẩm, tự do và nhân quyền, nhưng là một đảng chính trị nhỏ. Đảng theo khuynh hướng thiên hữu, nhưng có thái độ tích cực trong chính sách viện trợ cho các nước nghèo và cho Việt Nam. Chủ tịch đảng hiện nay là Goran Hagglund (từ 2004).

Ngoài ra, còn có một số đảng nhỏ như đảng Dân chủ Thụy Điển (SD) thành lập tháng 2/1991 đại diện cho những phần tử cực hữu đòi đẩy mạnh tư nhân hóa các xí nghiệp nhà nước, cắt giảm thuế, phản đối viện trợ cho các nước nghèo, theo đường lối dân tộc chủ nghĩa cực đoan (Quốc xã), bài ngoại. Hiện nay đảng đang có uy tín và ảnh hưởng ngày càng tăng. Trong cuộc bầu cử 2010, lần đầu tiên SD giành được 6% số phiếu và có đại diện trong Quốc hội.

Theo kết quả bầu cử Quốc hội tháng 9/2010 (nhiệm kỳ 9/2010-2014) số ghế của các đảng như sau: Đảng XHDC: 113 ghế; Cánh tả: 19 ghế; Môi trường (đảng Xanh): 25 ghế; Ôn hòa (Bảo thủ): 107 ghế; Tự do: 24 ghế; Trung tâm: 22 ghế; Dân chủ thiên chúa giáo: 19 ghế.

 

IV. Giới thiệu về kinh tế:

Với nền kinh tế nội địa công nghệ cao và một hệ thống phúc lợi xã hội toàn diện, Thụy Điển là một trong các quốc gia có mức sống cao nhất thế giới. Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước đến 2008, nền kinh tế Thụy Điển phát triển rất ổn định do nhu cầu trong nước tăng và xuất khẩu mạnh. Trong quý 4 của năm 2008, Thụy Điển lâm vào suy thoái. Do phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu ô tô, công nghệ viễn thông, thiết bị xây dựng và đầu tư hàng hóa khác, Thụy Điển đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nhu cầu ngoài nước giảm khi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu nổ ra. Kết quả là GDP Thụy Điển năm 2009 giảm 4,9%. Tuy nhiên GDP năm 2010 đạt 5,5% và dự kiến là 3,7% cho năm 2011. Vào giữa năm 2011, tăng trưởng GDP dự kiến sẽ chững lại ở mức trước khủng hoảng của 2007, khoảng 3,4%. Theo Tổng Cục thống kê Thủy Điển, năm 2010 tỷ lệ thất nghiệp ở mức 8,2% và tỷ lệ lạm phát là 1,8%.

1. Điều kiện tự nhiên, xã hội:

Thụy Điển có ba nguồn tài nguyên chính là rừng, quặng sắt và thủy điện. Rừng chiếm khoảng 60% diện tích cả nước và trữ lượng khoảng 2,5 tỷ m3 gỗ. Quặng sắt tập trung chủ yếu ở miền Bắc có trữ lượng khoảng 3 tỷ tấn, có hàm lượng cao (60 - 70%). Thủy điện tương đối dồi dào. Hiện nay các nhà máy thủy điện ở Thụy Điển cung cấp 50%  điện năng, 50% còn lại là năng lượng hạt nhân và nhiệt điện (Thụy Điển có 10 nhà máy điện hạt nhân cung cấp 45% nhu cầu về điện). Đất trồng trọt chỉ chiếm khoảng 10% diện tích cả nước (3 triệu ha) và tập trung ở phía Nam và vùng ven biển. Lực lượng lao động khoảng 4,9 triệu người.

2. Cơ cấu kinh tế:

Công nghiệp: 26,7% GDP; Nông nghiệp: 1,6% GDP; Dịch vụ: 71,6% GDP.

Kim ngạch xuất khẩu: 185,1 tỷ USD, chiếm 51% GDP; Kim ngạch nhập khẩu: 166,6 tỷ USD. Các đối tác thương mại chính là Đức, Na Uy, Mỹ, Đan Mạch, Anh, Hà Lan, Pháp và Trung Quốc.

3. Các ngành công nghiệp chính:

- Công nghiệp chế tạo là ngành công nghiệp lớn nhất của Thụy Điển, chiếm khoảng 42% giá trị sản xuất công nghiệp, 50% giá trị xuất khẩu. Các sản phẩm của ngành công nghiệp chế tạo bao gồm: xe ô tô con, xe buýt, ô tô vận tải, động cơ máy bay của hai hãng Volvo và Saab-Scania, thiết bị viễn thông, động cơ điện và thiết bị điện, đồ điện gia dụng... của các hãng Eicsson, ABB, Electrolux, ASEA... máy móc, thiết bị dùng trong nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm của các hãng Alfa-Laval, Tetra Pak, vòng bi của hãng SKF, thiết bị, máy móc khai thác mỏ của hãng Atlas Copco...

- Công nghiệp hóa chất chiếm 11% giá trị sản xuất công nghiệp, 13% giá trị  xuất khẩu. Các sản phẩm của ngành này gồm chất dẻo, các sản phẩm cao su, các hóa chất dùng trong công nghiệp dược phẩm, thiết bị xử lý nước và bảo vệ môi trường.

- Công nghiệp khai khoáng và luyện kim chiếm 6% giá trị sản xuất công nghiệp, 7% giá trị xuất khẩu. Các sản phẩm của ngành này gồm thép đặc biệt, thép không rỉ, thép sợi, thép ống, thép tấm... của các hãng Avesta, Sandvik, Ovako, Uddeholm Tooling.

- Công nghiệp giấy và gỗ chiếm 16% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% giá trị xuất khẩu.

4. Nông nghiệp:

Thụy Điển có khoảng 3 triệu ha đất canh tác và 3% lực lượng lao động. Sản phẩm trồng trọt chủ yếu là lúa mì, tiểu mạch và đại mạch, hàng năm trồng 2 vụ vào mùa xuân và mùa thu.

5. Đầu tư:

Năm 2010, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Thụy Điển tăng 135% so với năm 2009, đạt 13,6 tỷ SEK (2009: 5,8 tỷ SEK) và đứng thứ 15 trong danh sách các nước tiếp nhận FDI (theo Sách thông số thế giới của CIA). Hiện Thụy Điển có tổng kim ngạch đầu tư thương mại xấp xỉ 113 tỷ SEK, đứng thứ tư Châu Âu, sau Anh, Đức và Pháp. Thụy Điển có vốn đầu tư trực tiếp tập trung vào Phần Lan, Mỹ, Ai-len, Na Uy và Anh.

6. Chính sách ODA:  

Mục tiêu chính của các dự án hợp tác phát triển Thụy Điển là nhằm cải thiện cuộc sống của con người, do vậy nhiều dự án hợp tác phát triển tập trung vào xóa đói giảm nghèo. Thụy Điển lựa chọn danh sách các nước ưu tiên nhận ODA trên cơ sở đánh giá những ưu tiên và chính sách của các nước. Tuy nhiên Chính phủ Thụy Điển nhấn mạnh tự do dân chủ, nhân quyền, minh bạch và chống tham nhũng là những tiêu chí quan trọng để xác định cung cấp viện trợ phát triển. Ba nội dung được ưu tiên trong hợp tác phát triển là: 1. Dân chủ và nhân quyền; 2. Bình đẳng giới và vai trò của phụ nữ trong công cuộc phát triển; 3. Khí hậu và môi trường. Hiện Thụy Điển đang tập trung ODA vào các nước trong khu vực Châu Phi. Cam-pu-chia và Băng-la-dét là hai nước trong khu vực Châu Á được ưu tiên nhận ODA.

 

V. Chính sách đối ngoại:

Thụy Điển đã có những sửa đổi hiến pháp sâu rộng nhất kể từ 1974 đến nay nhằm tạo thêm cơ sở pháp lý cho nhất thể hóa trong EU. Thực tế, trong năm qua Thụy Điển tiếp tục ưu tiên quan hệ hợp tác toàn diện với EU và Mỹ, tăng cường tham gia các hoạt động quân sự theo hướng liên kết ngày càng mạnh hơn với NATO (dù chưa là thành viên chính thức), tái khẳng định cam kết quốc phòng ở Áp-ga-nít-xờ-tan đến năm 2014 và duy trì hỗ trợ các mặt cho chính quyền thân Mỹ và phương Tây ở Irắc. Bên cạnh đó, Thụy Điển tiếp tục quan tâm thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và hợp tác với các nước Ban-tíc, đồng thời có cố gắng điều chỉnh, cải thiện quan hệ với Nga. Ở Châu Á, Thụy Điển tập trung tăng cường hợp tác với Trung Quốc và phần nào là Hàn Quốc và Nhật Bản.

  

                                   QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM

 

I/ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO:

- Thụy Điển là nước phương Tây đầu tiên công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam (11/1/1969), với Cộng hòa miền Nam Việt Nam (30/4/1975). Thụy Điển cũng là nước phương Tây có phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam mạnh nhất, sớm nhất (8/1966). Tháng 10/1968, Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam lập phòng thông tin tại Stockholm.

Tháng 6/1970: Thụy Điển lập Đại sứ quán tại Hà Nội và tháng 7/1970: Ta lập Đại sứ quán tại Stockholm. 4/9/1982: Đảng ta chính thức quyết định đặt quan hệ với Đảng XHDC Thụy Điển. Tháng 12/2010: Chính phủ Thụy Điển, vì lý do phải cắt giảm mạnh ngân sách, đã quyết định đóng cửa 5 sứ quán Thụy Điển trên thế giới vào năm 2011, trong đó có Sứ quán Thụy Điển tại Hà Nội. Tuy nhiên, ngày 2/8/2011, Chính phủ Thụy Điển tuyên bố sẽ không đóng cửa Đại sứ quán Thụy Điển tại Việt Nam.

1. Trao đổi các Đoàn cấp cao giữa 2 bên:

+ Lãnh đạo cấp cao Thụy Điển thăm Việt Nam:

Thủ tướng Carl Bildt (1994); Chủ tịch Quốc hội Birgiha Dahl (1995); Nhà Vua Thụy Điển Carl XVI Gusstaf và Hoàng hậu (2004); Thủ tướng Thụy Điển Goran Persson và Ngoại trưởng Laila Freivals dự Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 tại Hà Nội. Bộ trưởng Hợp tác Phát triển Gunilla Carlsson (2007); Bộ trưởng Ngoại giao Thụy Điển Carl Bildt dự Hội nghị FMM 9 (2009).

+ Lãnh đạo cấp cao Việt Nam thăm Thụy Điển: Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1974), Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (1993), Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm chính thức Thụy Điển (1995), Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu  (1999), Thủ tướng Phan Văn Khải (1999), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (2002), Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng (2008), Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên (4/2010).

Thụy Điển là nước phương Tây đã đi đầu trong việc hỗ trợ Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới ngay từ những năm đầu tiên trong các lĩnh vực cải cách kinh tế; tài chính; ngân hàng; quản lý kinh tế; hành chính; luật pháp,… và tích cực hỗ trợ Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế (IMF, WB...).

2. Quan hệ giữa hai nước sau khi Chính phủ trung hữu lên cầm quyền tháng 9/2006:

Chính phủ trung hữu (liên minh các đảng Ôn hoà, Trung tâm, Dân chủ Thiên chúa giáo và Tự do) do Thủ tướng Fredrik Reinfeldt, Chủ tịch đảng Ôn hoà, lên nắm quyền ở Thụy Điển từ tháng 9/2006 và tái đắc cử vào 9/2010.  Tháng 8/2007, Chính phủ Thụy Điển đã thông qua chính sách viện trợ phát triển mới, giảm số nước nhận viện trợ từ 77 xuống còn 33 nước và tập trung vào những nước nghèo ở châu Phi, châu Á và một số nước Đông Âu cũ. Đối với Việt Nam, Thụy Điển cho rằng Việt Nam đang có nền kinh tế phát triển năng động, đời sống nhân dân dần dần được nâng cao, do vậy viện trợ của Thụy Điển cho Việt Nam đã giảm dần, chuyển từ các dự án xoá đói giảm nghèo sang một số dự án quy mô nhỏ về quản lý, đào tạo, môi trường… trong vài năm trước khi kết thúc (2013).

 

II/ QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ:

1.    Thương mại:

Cùng với sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, quan hệ thương mại 2 nước cũng ngày càng tăng lên. Kim ngạch xuất, nhập khẩu cụ thể giữa 2 nước trong những năm gần đây như sau:

 

 

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Xuất khẩu

171

202,3

225

204,6

242

310

Nhập khẩu

164,2

209.2

230

427,5

250

200

Tổng kim ngạch

335,2

411,5

455

631,1

492

510

(Đơn vị triệu USD; Nguồn: Tổng Cục Hải quan)

Các sản phẩm xuất khẩu chính của Thụy Điển sang Việt Nam là máy móc và phụ tùng cho ngành công nghiệp và viễn thông. Các sản phẩm nhập khẩu chính của Thụy Điển từ Việt Nam là nông sản, giày dép, dệt may và đồ gỗ.

2.    Đầu tư:

        Hiện FDI của Thụy Điển vào Việt Nam đạt 460 triệu USD, đứng thứ 17 trong tổng số 55 quốc gia và vũng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Nhiều tập đoàn kinh tế lớn của Thụy Điển sớm có mặt tại Việt Nam như Ericsson, ABB, IKEA, Electrolux…Thụy Điển đầu tư chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài, nhiều nhất vào lĩnh vực dịch vụ. Ngành Nông lâm ngư nghiệp hiện chưa được các nhà đầu tư Thụy Điển quan tâm. Thụy Điển có dự án tại 6 địa phương tập trung vốn đầu tư vào các địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt. Đứng đầu về vốn đầu tư đăng ký là  Hà Nội, Long An, Bình Dương, Vĩnh Phúc, T.P Hồ Chí Minh…

 

III/ HỢP TÁC PHÁT TRIỂN :

1. Giai đoạn 1970-1990: Thụy Điển dành gần 6 tỷ SEK (khoảng 950 triệu USD) viện trợ không hoàn lại giúp Việt Nam xây dựng một số công trình; phục hồi 1 số cơ sở công nghiệp, năng lượng như xây dựng Nhà máy Giấy Bãi Bằng và trồng rừng tại Tuyên Quang; Bệnh viện nhi Thụy Điển tại Hà Nội (và Bệnh viện đa khoa Uông Bí.

2. Giai đoạn 1990 - 1998: Viện trợ của Thụy Điển cho Việt Nam giai đoạn này trị giá 230 triệu USD và chuyển hướng sang hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực như cải cách kinh tế, xây dựng thể chế, cải cách hành chính, luật pháp, phát triển nguồn lực nhằm hỗ trợ Việt Nam phát triển kinh tế thị trường bền vững, được thực hiện qua 10 chương trình hợp tác trên các lĩnh vực như năng lượng, y tế, phát triển nông thôn, cải cách kinh tế, ngân hàng, đổi mới hệ thống địa chính, cải cách hành chính, luật pháp, môi trường, văn hóa.

3. Giai đoạn 1999-2001: Giá trị viện trợ của Thụy Điển cho Việt Nam trong giai đoạn 1999 – 2001 là 60 triệu USD và giai đoạn 2002-2003 là 70 triệu USD. Hướng hợp tác chủ yếu giữa 2 bên trong giai đoạn này là hỗ trợ Việt Nam xây dựng, cải cách thể chế, tăng cường năng lực trong các lĩnh vực kinh tế, hành chính, luật pháp, phát triển kinh tế thị trường với sự điều tiết của Nhà nước, y tế, ngân hàng, đổi mới công tác hệ thống địa chính, cải cách hành chính…

4. Giai đoạn 2004-2006:

Thụy Điển đã thông qua Chiến lược Hợp tác phát triển với Việt Nam giai đoạn 2004-2008. Việt Nam và Thụy Điển đã ký Hiệp định khung về Hợp tác phát triển giai đoạn 2004-2006 nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam tháng 2/2004 của Nhà Vua và Hoàng hậu Thụy Điển.

5. Năm 2007: Thụy Điển cam kết dành cho Việt Nam 300 triệu SEK viện trợ không hoàn lại. Theo chính sách Hợp tác Phát triển mà Chính phủ Thụy Điển thông qua từ tháng 8/2007, Việt Nam được xếp vào nhóm các nước giảm dần được nhận viện trợ.

6. Năm 2009-2013: Tháng 11/2009, hai bên đã ký kết Hiệp định mới về Hợp tác phát triển giữa hai nước giai đoạn 2009-2011 để làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai các dự án cụ thể trong Chiến lược quốc gia của Thụy Điển về hợp tác phát triển với Việt Nam giai đoạn 2009-2013, với tổng viện trợ khoảng 70 triệu USD, theo hướng giảm dần, tập trung vào 6 lĩnh vực: Môi trường và biến đổi khí hậu; Cải cách hành chính công và chống tham nhũng; Dân chủ nhân quyền, nhà nước pháp quyền, văn hóa và truyền thông; y tế; phát triển doanh nghiệp nhỏ; nghiên cứu khoa học.

Tại Hội nghị CG tháng 12/2011, Thụy Điển đã không còn cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam nữa do quan hệ hợp tác phát triển giữa hai nước đang chuyển dần từ hình thức cho nhận sang hợp tác đối tác bình đẳng, cùng có lợi. Hơn nữa,  sau năm 2013, Thụy Điển sẽ hoàn toàn chấm dứt cung cấp ODA cho Việt Nam.

 

IV/ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI THỤY ĐIỂN:

Cộng đồng người Việt Nam tại Thụy Điển hiện có khoảng 14.000 người, trong đó có khoảng 4.150 người đã nhập quốc tịch Thụy Điển. Đa số người Việt định cư ở đây sang Thụy Điển trong những năm 1980 dưới hình thức vượt biên, số còn lại đi theo đường đoàn tụ gia đình, kết hôn. Nhìn chung đại bộ phận người Việt tại Thụy Điển thuộc diện bình dân, làm nghề buôn bán nhỏ lẻ và sống hòa nhập với xã hội sở tại./.

 

Tháng 2/2012

 
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn 
Hiển thị tốt nhất với Internet Explorer. Best viewed with Internet Explorer

EMC Đã kết nối EMC