Thứ trưởng Đoàn Xuân Hưng trả lời phỏng vấn báo Đầu tư
Câu hỏi 1: Xin Thứ trưởng cho biết những thuận lợi, khó khăn và những đóng góp, sáng kiến nổi bật của Việt Nam trên cương vị Chủ tịch ASEAN trong năm qua?
Trả lời:
Trước tiên, nhân dịp đầu Xuân Tân Mão, 2011, tôi xin chúc Quý Báo và toàn thể độc giả của báo Đầu tư ở trong và ngoài nước một năm mới sức khỏe, hạnh phúc và thành công.
Thành công của ASEAN và dấu ấn Việt Nam là những gì giờ đây chúng ta có thể tự hào khi nói về năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN 2010.
Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010 trong bối cảnh Hiệp hội đang chuyển sang giai đoạn phát triển mới, đó là hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và hoạt động trên cơ sở Hiến chương ASEAN. Tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN diễn ra trong một môi trường nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức. ASEAN ngày càng trở thành một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng trong bảo đảm môi trường hòa bình, an ninh và hợp tác vì phát triển ở khu vực, là đối tác không thể thiếu của các nước và các tổ chức lớn trên thế giới. Song ASEAN cũng như từng nước thành viên đang nỗ lực hết mình khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới và đối phó với những thách thức toàn cầu khác như biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng hợp tác của ASEAN và diễn biến tình hình khu vực và thế giới, chúng ta đã đề xuất và được các nước thành viên ủng hộ chủ đề của năm là: «Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động" và xác định trọng tâm ưu tiên là: đẩy nhanh tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN, tăng cường quan hệ đối ngoại của ASEAN và bảo đảm vai trò trung tâm của Hiệp hội ở khu vực; đẩy mạnh hợp tác rộng rãi nhằm duy trì hòa bình và an ninh khu vực, phát triển bền vững và ứng phó với những thách thức toàn cầu.
Với tinh thần chủ động, tích cực và có trách nhiệm, trên cương vị Chủ tịch, chúng ta đã có những sáng kiến rất thiết thực và những biện pháp cụ thể, thúc đẩy mạnh mẽ “Văn hóa thực thi” để triển khai có hiệu quả Hiến chương ASEAN và Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN trên ba trụ cột.
Về chính trị - an ninh, Việt Nam đã cùng ASEAN đẩy mạnh việc thực hiện 14 lĩnh vực ưu tiên, phát huy cao độ hiệu quả của các cơ chế, công cụ hợp tác vì hòa bình và an ninh ở khu vực, như: Hiệp ước thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC), Hiệp ước về khu vực không phổ biến vũ khí hạt nhân Đông Nam Á (SEANWFEZ), Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)…. Chúng ta đã chủ động đề xuất Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh (MACOSA), thúc đẩy và khởi động Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng với các bên đối tác (ADMM+), góp phần làm sâu sắc hơn và mở rộng hơn quan hệ của ASEAN với các đối tác, thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong một cấu trúc khu vực đang định hình, vì hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực. ASEAN đã nâng cấp quan hệ ASEAN – Hàn Quốc lên Đối tác chiến lược, ASEAN – Mỹ lên tầm chiến lược. Hội nghị Cấp cao ASEAN – Hoa Kỳ lần 2 đã được tổ chức và cơ chế này chính thức đi vào hoạt động thường niên; Hội nghị cấp cao Đông Á được mở rộng với sự tham gia của Nga và Hoa Kỳ.
Về kinh tế, Việt Nam cũng đã cùng các nước ASEAN thúc đẩy thực hiện các chương trình và chỉ tiêu trong lộ trình liên kết và xây dựng cộng đồng kinh tế, cả ở tầm quốc gia và tầm khu vực. Trong năm, ASEAN đã và đang triển khai hiệu quả các lộ trình thuận lợi hóa về thương mại, dịch vụ, đầu tư, cơ bản đưa hầu hết các dòng thuế xuống 0%-5%. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN được củng cố và phát triển cùng với việc ký và thực hiện Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA, thay cho cơ chế ưu đãi thuế quan phổ cập CEPT/AFTA), Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA), Gói cam kết thứ 8 của Khung hợp tác về dịch vụ...
Về văn hóa - xã hội, ta đã chủ động thúc đẩy việc khởi động và đưa Cộng đồng văn hóa - xã hội đi vào vận hành hiệu quả. Ủy ban về phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC) đã được thành lập và thực sự đi vào hoạt động. Nhằm góp phần thúc đẩy xây dựng một Cộng đồng ASEAN chia sẻ và đùm bọc, hướng tới người dân và vì phúc lợi của người dân, Việt Nam đã đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến về những vấn đề thiết thân nhất của khu vực, như: Tuyên bố về phục hồi và phát triển bền vững; Tuyên bố về ứng phó với thách thức do biến đổi khí hậu; Tuyên bố về Phát triển nguồn nhân lực và các kỹ năng cho phục hồi kinh tế và tăng trưởng bền vững và Tuyên bố về Tăng cường phúc lợi và phát triển của phụ nữ và trẻ em ASEAN và Tuyên bố ASEAN về hợp tác tìm kiếm và cứu hộ người và tàu thuyền gặp nạn trên biển.
Trên cương vị Chủ tịch ASEAN 2010, chúng ta đã khéo léo, chủ động và kiên trì phối hợp chặt chẽ cùng các thành viên ASEAN và các đối tác xử lý hài hòa trên cơ sở đồng thuận các vấn đề nhạy cảm, phức tạp như vấn đề Mi-an-ma, bán đảo Triều Tiên, duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn hàng hải ở Biển Đông.
Thành công của Việt Nam trong năm ASEAN 2010 đã góp phần tăng cường đoàn kết, đồng thuận trong ASEAN, tăng cường quan hệ giữa ASEAN với các đối tác và để lại dấu ấn Việt Nam hết sức tốt đẹp trong bạn bè ASEAN và các đối tác.
Câu hỏi 2: Thông qua các HNCC ASEAN đã được tổ chức thành công, việc liên kết kinh tế được tạo thêm các điều kiện thuận lợi mới với những Hiệp định thương mại được ký kết như: Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA), Gói cam kết thứ 8 của Khung hợp tác về dịch vụ… Thứ trưởng nhận định như thế nào về cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp tác giao thương với các thị trường nội và ngoại khối sau các Hiệp định trên?
Trả lời:
Thông qua việc ký kết các văn bản hợp tác kinh tế mới và các văn bản thay thế, bổ sung cho các Hiệp định đã ký trước đây, tăng cường giám sát việc thực hiện các cam kết kinh tế đã ký, các nước ASEAN đã và đang quyết tâm đẩy mạnh tiến trình hợp tác kinh tế chặt chẽ và sâu rộng hơn nữa trong khối cũng như mở rộng hợp tác với các nước đối tác bên ngoài.
Việc tham gia tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN mở ra những cơ hội to lớn cho Việt Nam. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch thương mại hai chiều trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt 13.078 triệu đôla Mỹ và là thị trường xuất khẩu thứ hai của Việt Nam, sau Hoa Kỳ, với giá trị xuất của Việt Nam sang các nước ASEAN trong 6 tháng đầu năm 2010 đạt 6.300 triệu đôla Mỹ. Nếu biết khai thác lợi thế của mình ở ASEAN, chúng ta sẽ có được một thị trường giàu tiềm năng với dân số đông (khoảng 580 triệu người), đa dạng về lứa tuổi và văn hóa.
Đi đôi với những cơ hội, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Hoàn thành xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015 sẽ biến ASEAN trở thành một không gian kinh tế chung, không còn ngăn cách đối với hàng hóa, dịch vụ, sức lao động và vốn. Nền sản xuất trong nước sẽ phải đối mặt với làn sóng hàng hóa giá rẻ đổ vào từ các nước ASEAN, lao động trong nước sẽ phải chịu sự cạnh tranh quyết liệt từ nguồn lao động có trình độ, giá rẻ từ ASEAN... Đó là những thách thức có thể nhìn thấy rõ được trong những năm tới đây. Bên cạnh đó, các chính sách vĩ mô của chúng ta cũng phải thay đổi để phù hợp với các chính sách chung trong khu vực. Chúng ta cũng phải chịu sức ép lớn về tiến độ triển khai các Hiệp định vì thời gian từ nay đến thời điểm hoàn thành việc xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (2015) không còn nhiều.
Nhìn chung, xét trên mối tương quan về quan hệ kinh tế của Việt Nam với ASEAN so với thế giới cũng như xét trên triển vọng của hợp tác kinh tế ASEAN, việc tham gia tích cực trong Hợp tác Kinh tế ASEAN là cơ hội to lớn của Việt Nam. ASEAN đã là cánh cửa quan trọng của Việt Nam với thế giới. Hợp tác kinh tế ASEAN sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam ngày càng định vị rõ hơn, vững chắc hơn trong cấu trúc chuỗi sản xuất chung của khu vực.
Câu hỏi 3: Thứ trưởng có lời khuyên gì đối với các doanh nghiệp Việt Nam để tận dụng tối đa lợi thế mở cửa, và khắc phục những hạn chế về năng lực của mình?
Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều thuận lợi và cơ hội song cũng tạo ra không ít thách thức đối với doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp không kịp thời nắm bắt và biến cơ hội thành hiện thực thì các cơ hội sẽ qua đi và không bao giờ trở lại. Nếu doanh nghiệp không giải quyết và vượt qua được thách thức thì thách thức sẽ lớn dần lên và hệ lụy sẽ ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn.
Một thực tế là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nước ta còn thấp, nhiều doanh nghiệp của ta còn e ngại trong cạnh tranh không chỉ trên thị trường quốc tế mà còn ở thị trường nội địa. Song việc cạnh tranh trong cơ chế thị trường là điều không thể tránh khỏi, doanh nghiệp ta muốn hay không cũng phải dũng cảm chấp nhận thách thức này. Chỉ có quyết tâm phấn đấu để ra biển lớn, đối diện với gió mạnh, sóng cao, lãnh đạo doanh nghiệp mới thể hiện được bản lĩnh của mình và con thuyền doanh nghiệp mới vững vàng, lớn mạnh được.
Mỗi doanh nghiệp có những thế mạnh và điểm yếu nhất định. Hiểu mình, biết người, mỗi doanh nghiệp có cách riêng của mình trong cuộc cạnh tranh rất khốc liệt tại thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế. Khó có thể đưa ra lời khuyên riêng cho mỗi doanh nghiệp, tuy nhiên, tôi nghĩ rằng:
1) Các doanh nghiệp của ta muốn hay không đều phải chấp nhận cạnh tranh ngay trong nước ta và ở nước bạn. Khi đã tham gia vào sân chơi quốc tế, ta phải chấp nhận luật chơi chung, phải mở cửa thị trường với những lộ trình nhất định.
2) Tăng cường khả năng cạnh tranh và nâng cao năng lực của doanh nghiệp thông qua việc tích cực xây dựng và quảng bá thương hiệu; xây dựng chiến lược doanh nghiệp lâu dài, tìm hiểu về các lợi thế của mình, “luật chơi” của các thị trường trên thế giới, nắm bắt được các tiêu chuẩn sản phẩm…;
3) Tích cực nắm bắt những công nghệ mới, liên tục sáng tạo, đổi mới, học hỏi doanh nghiệp trong và ngoài nước. Phát triển những sản phẩm mới, sản phẩm có công nghệ cao để nâng cao giá trị gia tăng của doanh nghiệp; gia tăng liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua các hiệp hội doanh nghiệp để cùng phát triển, tăng cường trao đổi thông tin, mở rộng mạng lưới với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
4) Tạo lòng tin cho người tiêu dùng, các đối tác vào các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Trong xây dựng lòng tin thì đạo đức doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng. Những hành động cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, sản phẩm đảm bảo chất lượng sẽ xây dựng lòng tin của công chúng.
5) Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực (đặc biệt về công nghệ, đào tạo tay nghề có chất lượng cao, ngoại ngữ), tạo điều kiện cho người lao động phát huy những thế mạnh của mình; thu hút người tài trong lĩnh vực quản lý và công nghệ là giải pháp lâu dài để phát triển doanh nghiệp một cách bền vững.
Câu hỏi 4: Cùng với ASEAN 16 và 17, với cương vị Chủ tịch ASEAN, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã tham dự các Hội nghị Thượng đỉnh G20 trong năm 2010. Theo Thứ trưởng, những sự kiện trên đã đóng góp như thế nào trong việc khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế?
Trả lời:
Với cương vị Chủ tịch ASEAN 2010, Việt Nam được các nước thành viên G20 mời tham dự cả hai kỳ Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại Toronto, Canada và tại Seoul, Hàn Quốc. Chúng ta đã có những đóng góp chủ động và tích cực, thể hiện xứng đáng vai trò Chủ tịch ASEAN, đồng thời cũng là đại diện cho các nền kinh tế đang phát triển năng động. Cụ thể là:
Thứ nhất, Việt Nam đã có nhiều đóng góp thực chất vào nội dung của các Hội nghị Thượng đỉnh G20, đặc biệt là các vấn đề được cộng đồng quốc tế quan tâm như triển khai khuôn khổ tăng trưởng bền vững, mạnh mẽ và cân bằng, thúc đẩy tự do hóa thương mại, các vấn đề phát triển, cải cách thể chế quốc tế, ứng phó với biến đổi khí hậu .v.v.. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã đưa ra nhiều sáng kiến và đề xuất quan trọng, bao gồm đề xuất G20 cần chú trọng hỗ trợ các nước đang phát triển mới thoái khỏi ngưỡng thu nhập thấp, các sáng kiến về tăng cường cơ chế tham vấn và phối hợp chính sách giữa G20 với các nhóm nước và tổ chức khu vực, sáng kiến về Diễn đàn các quốc gia ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu. Các sáng kiến của Việt Nam được các nước ủng hộ và ghi nhận trong các văn kiện chung của các Hội nghị Thượng đỉnh.
Hai là, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò đại diện cho các nước ASEAN tham dự các Hội nghị Thượng đỉnh G20, thể hiện qua việc các sáng kiến và đề xuất mà chúng ta đưa ra đều xuất phát từ ích chung của các nước ASEAN. Chúng ta đã hết sức chú trọng khâu tham vấn ý kiến của các nước ASEAN thông qua việc xây dựng các Tài liệu quan điểm chung của ASEAN về những nội dung quan trọng của các Hội nghị Thượng đỉnh G20, đồng thời chủ động tổ chức các cuộc gặp và tham vấn ở nhiều cấp độ khác nhau với các nước ASEAN trước mỗi kỳ Hội nghị Thượng đỉnh. Các nước ASEAN nhìn chung đều đánh giá cao kết quả tham dự của Việt Nam vào tiến trình G20 trong năm 2010, đồng thời rất hoan nghênh sự chủ động và trách nhiệm của chúng ta trong việc tham vấn ý kiến của các nước.
Ba là, chúng ta đã tranh thủ việc tham dự các Hội nghị Thượng đỉnh G20 để thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước thành viên G20, cũng là những đối tác quan trọng của Việt Nam. Bên lề các Hội nghị Thượng đỉnh G20 tại Toronto và Seoul, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp xúc với lãnh đạo nhiều nước thành viên G20 để trao đổi về các biện pháp thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam và các nước.
Đặc biệt, tại Seoul, bên lề Hội nghị Thượng đỉnh G20, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là Lãnh đạo duy nhất trong ASEAN được Tổng Thư ký Liên Hợp quốc mời tham dự và phát biểu cùng với lãnh đạo một số nước tại diễn đàn trao đổi về việc thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Điều này thể hiện sự coi trọng và đánh giá cao của LHQ và cộng đồng quốc tế nói chung đối với những kinh nghiệm phát triển cũng như vai trò tích cực của Việt Nam trong tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Có thể nói, sự tham gia tích cực và có trách nhiệm của Việt Nam tại các Hội nghị Thượng đỉnh G20 trong năm qua đã góp phần khẳng định năng lực đảm nhận các trách nhiệm quốc tế và nâng cao uy tín và vị thế của đất nước ta trên các diễn đàn quốc tế, đồng thời thúc đẩy quan hệ của nước ta với các nước đối tác và các tổ chức quốc tế quan trọng trên thế giới.
Câu hỏi 5: Xin Thứ trưởng cho biết những nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao Việt Nam trong năm 2011 và những năm tiếp theo?
Trả lời:
Cho đến thời điểm này, khi năm 2010 chuẩn bị khép lại, chúng ta có thể tự hào với những thành tựu đối ngoại đã đạt được, góp phần nâng cao thế và lực của đất nước, tạo đà vững bước cho những năm tiếp theo.
Năm 2011 và những năm tới tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, trong khi tình hình trong nước tiếp tục theo hướng phục hồi và duy trì đà tăng trưởng kinh tế, tái cơ cấu và mô hình phát triển để bắt kịp với xu thế chung của thế giới. Trước tình hình đó, chúng ta cần chủ động, linh hoạt, đối phó hiệu quả với các thách thức, phát huy những thành tựu đã đạt được, tranh thủ tối đa những thuận lợi khách quan và chủ quan nhằm tạo dựng cho nước ta một thế vững chắc hơn nữa về đối ngoại, góp phần phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước.
Nhiệm vụ cơ bản của công tác đối ngoại trong năm 2011 và những năm tới là tiếp tục phục vụ mục tiêu lớn là: giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo những điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động xây dựng những định hướng chiến lược về đối ngoại nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 – 2020. Triển khai cụ thể trên một số hướng chính như sau:
- Ngoại giao chính trị: tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa quan hệ với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các đối tác tiềm năng, bạn bè truyền thống, đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững; đồng thời xây dựng các định hướng trung hạn và dài hạn cho ngoại giao đa phương;
- Ngoại giao kinh tế: tiếp tục đẩy mạnh theo hướng xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia chủ động, tích cực vào các cơ chế hợp tác kinh tế khu vực và liên khu vực; mở rộng đầu tư, thị trường xuất khẩu, lao động du lịch; củng cố các cơ chế chỉ đạo và triển khai các thỏa thuận quốc tế; vận động các nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam và phối hợp đấu tranh bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam;
- Ngoại giao văn hóa: tích cực hoàn thiện và đưa vào triển khai Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến 2010;
- Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài: tiếp tục chú trọng đề xuất và hoàn thiện chính sách, chủ trương đối với người Việt Nam ở nước ngoài để tranh thủ tối đa nguồn lực quan trọng này;
- Thông tin đối ngoại: tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước con người, thành tựu mọi mặt, đồng thời chủ động trong đấu tranh dư luận và bảo vệ lợi ích của đất nước và dân tộc.
- Tiếp tục tăng cường hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, Quốc hội và ngoại giao nhân dân; có sự kết hợp tốt giữa chính trị đối ngoại với ngoại giao quốc phòng, an ninh, ngoại giao kinh tế, văn hóa trên cả bình diện song phương và đa phương nhằm đạt mục tiêu triển khai thắng lợi đường lối đối ngoại của Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam./.
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail |