Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên trả lời phỏng vấn báo Quốc tế (Nhân dịp kỷ niệm 5 năm Việt Nam tham gia ASEAN)
Câu hỏi 1: Năm năm đã qua từ ngày Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á - ASEAN (28/7/1995 – 28/7/2000), xin Bộ trưởng đánh giá về sự phát triển của ASEAN trong 5 năm qua.
Trả lời:
Từ khi Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN tháng 7/1995, ASEAN đã có những chuyển biến quan trọng cả về lượng và chất. ý tưởng ấp ủ từ lâu về một ASEAN bao gồm tất cả 10 quốc gia Đông Nam á, của Đông Nam á, do Đông Nam á, vì Đông Nam á đã trở thành hiện thực với việc kết nạp Cam-pu-chia ngày 30/4/1999 tại Hà Nội. Quan hệ giữa các nước đã chuyển sang một giai đoạn mới, cùng nhau đoàn kết, hợp tác, vì hoà bình, ổn định và phồn vinh của mỗi nước cũng như của cả khu vực. ASEAN trở thành một nhân tố thiết yếu cho hoà bình, ổn định, hợp tác phát triển ở Đông Nam á, Châu á - Thái Bình Dương và trên thế giới, có vị trí và tiếng nói ngày càng quan trọng trên trường quốc tế. Mặt khác, trong 5 năm qua, nhất là từ giữa năm 1997, ASEAN trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính nghiêm trọng, đe dọa sự tồn tại và phát triển của Hiệp hội. Nhưng chính trong thời điểm đầy khó khăn, thách thức đó, Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội tháng 12/1998 thành công rất tốt đẹp đã góp phần củng cố và tăng cường sức mạnh và uy tín của Hiệp hội. Với việc thông qua Tuyên bố Hà Nội, Chương trình hành động Hà Nội (HPA) thực hiện Tầm nhìn 2020 cùng nhiều biện pháp mạnh bạo khác, Cấp cao Hà Nội đã thể hiện ý chí và quyết tâm mạnh mẽ của ASEAN nhằm củng cố đoàn kết, tăng cường hợp tác để sớm khôi phục kinh tế, phát triển bền vững và đồng đều, phấn đấu cho hoà bình, ổn định khu vực, tiếp tục mở rộng quan hệ với bên ngoài. Thực hiện các nghị quyết đúng đắn trên, với nỗ lực của bản thân từng nước và của cả Hiệp hội cùng với sự hợp tác, giúp đỡ của các nước bè bạn trong đó có các nước đối thoại, ASEAN đã qua được thời kỳ xấu nhất, kinh tế nhiều nước đã được phục hồi, thậm chí nhanh hơn dự kiến; đoàn kết, hợp tác được củng cố và tăng cường, bước đầu lấy lại được lòng tin của quốc tế đối với tương lai phát triển của Hiệp hội. Tuy nhiên, ASEAN vẫn phải tiếp tục đối phó với không ít thách thức trên con đường phát triển, nhất là do tác động của toàn cầu hoá và sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước thành viên.
Câu hỏi 2: Xin Bộ trưởng cho biết ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập ASEAN và những đóng góp của Việt Nam vào hoạt động của Hiệp hội.
Trả lời:
1/. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động tích cực hội nhập khu vực và quốc tế, tháng 7/1995 ta đã chính thức gia nhập ASEAN, đánh dấu một giai đoạn mới trong lịch sử Đông Nam á. Với sự chủ động trong công tác hội nhập khu vực, ta đã tận dụng, phát huy các lợi thế đối với ta trong các hợp tác ASEAN, góp phần triển khai tốt chính sách khu vực, nâng cao đáng kể uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam. Gần 5 năm tham gia ASEAN, tuy phải vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhưng về đại thể đã đưa lại cho ta một số thuận lợi chủ yếu sau: Một là, Việt Nam gia nhập ASEAN đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá của Đảng và Nhà nước ta, vào việc củng cố xu thế hoà bình và hợp tác khu vực, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng kinh tế và bảo vệ đất nước. Tham gia ASEAN đã bổ trợ cho các mối quan hệ song phương của ta với các nước láng giềng trong khu vực, tăng cường hiểu biết và thông cảm lẫn nhau, góp phần cải thiện cơ bản và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hữu nghị hợp tác của ta với các nước này. Hai là, quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư giữa Việt Nam với các nước ASEAN khác cũng tăng nhanh và đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Tính chung từ năm 1990 đến nay, thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN khác tăng tốc độ trung bình 26,8%/năm và hiện nay chiếm tới 32,4% (tức gần 1/3) toàn bộ kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Tổng số vốn đầu tư của ASEAN vào ta là 9,5 tỷ đô la (chiếm 20% tổng đầu tư nước ngoài). Ba là, là thành viên ASEAN, Việt Nam có cơ hội thúc đẩy và tăng cường hơn nữa mối quan hệ tay đôi với các nước ngoài ASEAN, các tổ chức quan trọng và khu vực khác, trên các lĩnh vực chính trị, an ninh và phát triển kinh tế – xã hội; tham gia các Hiệp định hợp tác của ASEAN với các bên đối thoại như EU, Ca-na-đa, Ô- xtrây-li-a..., cũng như hàng trăm dự án hợp tác cụ thể được các bên đối thoại tài trợ. Bốn là, việc tham gia các chương trình hợp tác và liên kết kinh tế của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN, (AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA), Chương trình Hợp tác Công nghiệp ASEAN (AICO) ... đã bổ trợ nhiều cho quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song phương giữa ta và các nước ASEAN, đồng thời mở đường cho ta tham gia các cơ chế hợp tác và tổ chức khác như APEC, WTO..., và góp phần chuẩn bị, giúp tích luỹ kinh nghiệp và tạo thuận lợi cho ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sau này. Năm là, Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để học tập và chia sẻ kinh nghiệm phát triển, tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến thông qua các chương trình hợp tác với các nước trong và ngoài khu vực.
2/. Trong gần 5 năm qua, ta đã tham gia chủ động, tích cực, khá đầy đủ và có hiệu các hoạt động hợp tác của Hiệp hội, có những đóng góp quan trọng trên các lĩnh vực hợp tác như chính trị, an ninh, kinh tế, chuyên ngành, mà đỉnh cao là chủ trì và tổ chức thành công Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội tháng 12/1998 với chủ đề “đoàn kết, hợp tác vì hoà bình, ổn định và phát triển đồng đều”. Các văn kiện và quyết định của Cấp cao Hà Nội, nhất là Tuyên bố Hà Nội và Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) với thời gian thực hiện trong 6 năm, đã xác định rõ phương hướng và các biện pháp cụ thể cho hợp tác và phát triển của ASEAN trong những năm đầu của thiên niên kỷ mới, tạo đà cho hợp tác của ASEAN vượt qua khủng hoảng, góp phần khôi phục lòng tin của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và tương lai phát triển của ASEAN. Cùng với việc chủ động thúc đẩy thực hiện Chương trình Hành động Hà Nội, coi đó là trọng tâm và ưu tiên hoạt động của ASEAN cũng như giữa ASEAN với bên ngoài, nhất là các nước đối thoại, ta đã chủ động đưa ra các sáng kiến, nhất là trong lĩnh vực phát triển (như phát triển Tiểu vùng Mêkông, nhất là Hành lang Đông – Tây... ), giải quyết các vấn đề xã hội cấp bách của ASEAN (ma tuý trong thanh niên) ... Ta cũng đã cố gắng đóng góp vào việc thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định và hợp tác ở khu vực, tham gia tích cực vào những cố gắng của ASEAN biến Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) thành bộ quy tắc ứng xử không chỉ trong quan hệ giữa các nước Đông Nam á và giữa các nước này với các nước ngoài khu vực; xây dựng quy tắc ứng xử ở Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc (COC); đóng góp tích cực vào quá trình soạn thảo Quy chế hoạt động của Hội đồng Tối cao để giải quyết hoà bình các tranh chấp theo quy định của Hiệp ước; tham gia ký Hiệp ước Khu vực Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ)
Câu hỏi 3: Việt Nam sẽ nhận chức chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) và Diễn đàn an ninh khu vực (ARF) từ sau tháng 7/2000 đến tháng 7/2001 và đây là lần đầu tiên Việt Nam đảm nhận trách nhiệm này. Liệu đó có phải là một trọng trách đầy thách thức đối với một thành viên mới như Việt Nam?
Trả lời:
Theo quy định luân phiên trong ASEAN, Việt Nam sẽ đến lượt giữ chức Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN (ASC) và Chủ tịch Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) từ tháng 8/2000 đến hết tháng 7/2001. Đồng thời ta còn làm Chủ tịch Uỷ ban và Ban điều hành Hiệp ước Đông Nam á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ) và có thể làm Chủ tịch một số cơ chế khác của ASEAN như Hội đồng Tối cao Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) và Chủ tịch Bộ ba Ngoại trưởng ASEAN (ASEAN – Troika) nếu hai cơ chế này được lập ra trong năm tới. Tóm lại ta sẽ thay mặt ASEAN điều hành các hoạt động liên quan đến hợp tác chính trị-an ninh, chuyên ngành và quan hệ đối ngoại của Hiệp hội trong nhiệm kỳ Chủ tịch. Đảm nhiệm vai trò đó sẽ cho ta cơ hội để tiếp tục có những đóng góp tích cực hơn cho hợp tác của ASEAN, góp phần thúc đẩy sự phát triển cũng như nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Hiệp hội. Thực hiện tốt vai trò này cũng sẽ tạo điều kiện cho ta tiếp tục phát huy kết quả của Cấp cao Hà Nội, triển khai chính sách khu vực, tiếp tục củng cố và nâng cao vai trò quốc tế của ta. Chúng ta sẽ có cơ hội thúc đẩy và tăng cường hơn nữa mối quan hệ tay đôi với các nước trong và ngoài ASEAN, các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng khác trên các lĩnh vực hợp tác về phát triển kinh tế-xã hội, chính trị-an ninh. Tuy là một thành viên mới và lần đầu tiên đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Uỷ ban thường trực và Chủ tịch Diễn đàn khu vực ASEAN nhưng tôi tin tưởng rằng chúng ta sẽ hoàn thành tốt đẹp trọng trách của mình.
Câu hỏi 4: Việt Nam nhận trách nhiệm này vào thời điểm bản lề giữa hai thiên niên kỷ, vào lúc các nước trong khu vực vừa bước qua một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ mà hậu quả vẫn chưa giải quyết hết, đi kèm với nó là những xáo động xã hội tại một số nước thành viên. Trong bối cảnh đó, theo Bộ trưởng ASEAN nên đặt trọng tâm hợp tác trong thời gian tới vào các lĩnh vực nào? Với cách tiếp cận nào?
Trả lời:
Trong bối cảnh trên, theo tôi, trong thời gian tới, hoạt động của ASEAN cần tiếp tục phát huy tinh thần Hội nghị Cấp cao 6 “Đoàn kết, hợp tác vì một ASEAN hoà bình, ổn định và phát triển đồng đều” được cụ thể hoá bằng Chương trình Hành động Hà Nội, một văn kiện rất quan trọng là cơ sở định hướng cho hoạt động trong và ngoài ASEAN trong những năm tới. Do đó, trọng tâm hoạt động của ASEAN cũng như trong hợp tác với các nước bên ngoài là đẩy nhanh việc thực hiện Chương trình Hành động Hà Nội (HPA), hướng tới mục tiêu của Tầm nhìn 2020 là xây dựng ASEAN thành “một nhóm hài hoà các quốc gia sống trong hoà bình, ổn định và thịnh vượng, gắn bó nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc nhau”. Để đạt các mục tiêu trên, mọi nỗ lực sẽ được huy động để: a. Củng cố hơn nữa hoà bình và ổn định ở khu vực, tạo môi trường thuận lợi cho mỗi nước và cả khu vực phát triển; b. Không ngừng củng cố tăng cường đoàn kết, thống nhất trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiệp hội, góp phần đưa Hiệp hội phát triển đúng hướng theo các tôn chỉ, mục đích của mình; c. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên và các vùng; bảo đảm phát triển bền vững, đồng đều; d. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt trong ASEAN, trước hết là giải quyết các tác động về mặt xã hội của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, phát triển tiểu vùng liên quốc gia, nhất là lưu vực Mêkông trong đó có Hành lang Đông – Tây, tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ các thành viên mới trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Câu hỏi 5: Theo Bộ trưởng, hình ảnh của ASEAN sau 10 đến 20 năm nữa sẽ như thế nào?
Trả lời:
Chúng ta đang sống trong thời điểm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ khi mà cuộc cách mạng khoa học-công nghệ có những bước phát triển như vũ bão, toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng cả về bề rộng và chiều sâu, vừa đưa lại cơ hội, vừa tạo ra thách thức đối với sự phát triển của tất cả các nước cũng như ASEAN. Trong bối cảnh đó, hình dung ra một ASEAN sau 10 đến 20 năm nữa là công việc không đơn giản nhưng cũng hết sức cần thiết cho việc hoạch định chính sách phát triển từng nước cũng như của cả Hiệp hội. Tầm nhìn ASEAN 2020 được thông qua vào 1997 tại Kuala Lumpur, Malaysia đã xác định phương hướng và mục tiêu phát triển cho Hiệp hội trong vòng 20 năm tới, theo đó ASEAN sẽ trở thành “một nhóm hài hoà các quốc gia, rộng mở với bên ngoài sống trong hoà bình, ổn định và thịnh vượng, gắn bó với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong cộng đồng một xã hội đùm bọc lẫn nhau”. Hình ảnh của một ASEAN trong hai thập kỷ tới đang dần rõ nét với những kết quả đã đạt được trong việc thực hiện Chương trình Hành động Hà Nội. Đại thể, nói một cách lạc quan, vào năm 2020, Đông Nam á sẽ là một khu vực hoà bình, tự do và trung lập, các tranh chấp về lãnh thổ cũng như các khác biệt khác sẽ được giải quyết bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở các nguyên tắc của Hiệp ước Ba-li, sẽ trở thành khu vực không có vũ khí hạt nhân, sẽ là một lực lượng hữu hiệu đối với hoà bình và công lý ở Châu á - Thái Bình Dương và trên thế giới. Liên kết kinh tế ASEAN sẽ chặt chẽ hơn qua việc thành lập Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực đầu tư (AIA), các mạng lưới đường bộ, năng lượng trong ASEAN được hình thành, sẽ có sự hợp tác chặt chẽ hơn về thị trường vốn và tiền tệ, khoảng cách phát triển giữa các thành viên bị thu hẹp, ASEAN trở thành một lực lượng kinh tế phát triển năng động và bền vững, có sức cạnh tranh cao. Bên cạnh việc bản sắc riêng của mỗi dân tộc được gìn giữ, một bản sắc chung của ASEAN cũng sẽ hình thành, nghèo đói không còn là một thách thức lớn, sẽ trở thành một khu vực xanh, sạch, xã hội không còn những tệ nạn như ma tuý, chất lượng cuộc sống của con người sẽ được nâng lên. ASEAN sẽ có quan hệ rộng mở với bên ngoài, có vai trò quan trọng trên các diễn đàn quốc tế, có quan hệ ngày càng tăng với tất cả các bên đối thoại, các tổ chức quốc tế và khu vực khác trên cơ sở đối tác bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Tôi tin tưởng rằng với kinh nghiệm thành công trong hơn 30 năm tồn tại và phát triển của Hiệp hội, với những sáng tạo và nỗ lực của từng nước và cả Hiệp hội, ASEAN sẽ đạt được mục tiêu đề ra trong Tầm nhìn 2020.