Trang chủ     Đăng ký nhận tin    Ý kiến bạn đọc   Liên kết website English 
Tuesday, ngày 24 tháng 12 năm 2024 Tìm kiếm
 Tìm kiếm nâng cao

20 năm đổi mới trong lĩnh vực đối ngoại

20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật về đối ngoại, đưa đất nước ra khỏi tình trạng bị bao vây cô lập, mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ quốc tế cả về chính trị lẫn kinh tế, không ngừng nâng cao vị thế ở khu vực và trên thế giới, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ðã gần trọn 20 năm kể từ khi Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong những thành tựu ấy không thể không kể đến những thành tựu nổi bật về đối ngoại, đưa nước ta ra khỏi tình trạng bị bao vây cô lập, mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ quốc tế cả về chính trị lẫn kinh tế, không ngừng nâng cao vị thế ở khu vực và trên thế giới, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có được những thành tựu ấy một phần quan trọng là nhờ ở sự đổi mới tư duy rất sâu sắc về cục diện thế giới cũng như trong đường lối, chính sách và phương châm hành động trên mặt trận đối ngoại.

Nước ta tiến hành công cuộc đổi mới trong bối cảnh quốc tế có những biến động hết sức phức tạp, nhất là sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở các nước Ðông Âu, Liên Xô tan rã, làm cho phong trào cách mạng thế giới tạm thời thoái trào. Trong hoàn cảnh ấy, không dễ gì nhận diện được chuẩn xác những chiều hướng phát triển của thế giới, song Ðảng ta đã bình tĩnh phân tích cục diện thế giới, vận dụng phương pháp luận khoa học để lần tìm những dòng chảy cơ bản của thời cuộc, hoạch định đường lối, chính sách và những phương châm đối ngoại sáng tạo, được thực tế chứng minh là đúng đắn.

Về tính chất thời đại

Một trong những vấn đề đặt ra vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước là thế giới sẽ đi về đâu, tính chất, nội dung thời đại sẽ thế nào? Ðó không chỉ là vấn đề lý luận mà còn có ý nghĩa sâu sắc về thực tiễn. Không ít ý kiến cho rằng, mọi chuyện còn đang xáo động dữ dội, không nên và không thể bàn định được vấn đề này, càng không thể khăng khăng khẳng định loài người vẫn sống trong thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Bên cạnh đó nhiều người cho rằng, chỉ nên đề cập tính chất của thời đại dưới góc độ thời cuộc như "thời đại hậu chiến tranh lạnh", "thời đại đa cực", hay tính chất của sự phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ như "thời đại hậu công nghiệp", "thời đại thông tin", "thời đại kinh tế tri thức", "thời đại toàn cầu hóa"... Cho dù những cách đề cập như vậy đều có mặt hợp lý, song vấn đề "thời đại" được bàn ở đây là một khái niệm chính trị - xã hội rộng lớn, khái quát tiến trình phát triển và xu thế cơ bản của thế giới trong một thời kỳ lịch sử lâu dài.

Ðành rằng trong khi trên thế giới đang diễn ra những chấn động sâu rộng thì thật sự không dễ gì đánh giá được chuẩn xác chiều hướng phát triển của thời đại. Song, như V.I.Lê-nin từng nói: "Chỉ trên cơ sở này, nghĩa là trước hết xem xét những nét khác nhau cơ bản của các "thời đại" (chứ không phải của các giai đoạn lịch sử cá biệt ở các nước) thì chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta" (1). Ðối với Ðảng ta nếu không xác định được tính chất thời đại thì không thể xác định được phương hướng tiến lên của đất nước, không thể định ra chiến lược và sách lược đối nội cũng như đối ngoại đúng đắn, không thể tập hợp toàn dân phấn đấu cho mục tiêu hợp với xu thế của thời đại, không thể đấu tranh có hiệu quả với những luận điểm sai trái, thù địch.

Vì vậy, trong Cương lĩnh được thông qua tại Ðại hội VII, Ðảng ta đã khẳng định "Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử". Ðại hội VIII lại khẳng định "Sau những biến cố chính trị ở Liên Xô và Ðông Âu, CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH". Tới Ðại hội IX, luận điểm "Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH" lại được nhấn mạnh một lần nữa.

Cách đề cập như vậy có quá khiên cưỡng không? Trong mấy nghìn năm lịch sử, loài người đã lần lượt trải qua các thời đại cộng sản nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản rồi quá độ lên CNXH mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga. Theo quy luật tiến hóa, tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển không ngừng đòi hỏi quan hệ sản xuất phải được thay đổi phù hợp với nó và hình thái chính trị - xã hội phản ánh tính chất của mối quan hệ đó, đại diện cho lợi ích của giai cấp chiếm vị trí trung tâm. Với lực lượng sản xuất mang tính xã hội ngày càng cao trong khi sự chiếm hữu ngày càng tập trung vào một nhúm người, chủ nghĩa tư bản cuối cùng cũng không tránh khỏi quy luật phát triển hàng nghìn năm của loài người. Trên thực tế thì trong thế kỷ 20, chủ nghĩa xã hội đã thay thế chủ nghĩa tư bản ở một loạt nước từ châu Âu sang châu Á và cả Mỹ la-tinh với hàng tỷ dân; ngày nay nó vẫn tồn tại và phát triển ở một số nước và ngay trong lòng các nước tư bản chủ nghĩa, tư tưởng của chủ nghĩa xã hội vẫn lôi cuốn không ít người. Trong nhiều cuộc bầu cử, các đảng phái đi theo định hướng XHCN vẫn được sự ủng hộ của hàng triệu, triệu cử tri.

Sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô - Ðông Âu không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội khoa học mà do nhiều nguyên nhân như bệnh chủ quan duy ý chí, xem thường các quy luật kinh tế khách quan, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, không thừa nhận sản xuất hàng hóa và quy luật giá trị, chậm trễ trong việc ứng dụng những thành tựu hiện đại của khoa học và công nghệ, làm cho nền kinh tế bị trì trệ, đời sống nhân dân chậm được cải thiện, nhất là đảng cầm quyền ở một số nước đã mắc sai lầm về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội đã thành công trong việc kích động, gây rối loạn từ bên trong...

Vả lại thời đại nào ra đời và phát triển cũng trải qua nhiều bước thăng trầm, chế độ mới xuất hiện không phải đồng loạt ở mọi nước và thường dưới các hình thái khác nhau tùy hoàn cảnh cụ thể ở nước này hay nước khác. Thời đại phong kiến đã vậy, thời đại tư bản cũng không khác và thời đại quá độ lên CNXH cũng không tránh khỏi trạng thái đó.

Khác với trước, đối với chủ nghĩa xã hội, Ðảng ta vừa khẳng định những thành tựu to lớn và những đóng góp quan trọng của nó đối với nhân loại, vừa chỉ ra những khuyết điểm, sai lầm đưa tới khủng hoảng. Ðối với chủ nghĩa tư bản, Ðảng ta vừa chỉ ra bản chất và mâu thuẫn cơ bản, vừa ghi nhận những tiềm năng phát triển của nó. Khác với Nghị quyết Trung ương 9 khóa III (1963) họp sau Hội nghị quốc tế các đảng cộng sản và công nhân năm 1961 coi "sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc" và "sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới" như một khả năng trực tiếp; trong thời kỳ đổi mới, Ðảng ta đã nhấn mạnh tính gay go phức tạp của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp, những khó khăn, thử thách, những bước quanh co, khúc khuỷu trên con đường đi tới chủ nghĩa xã hội.

Ðương nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay chưa thể tiên liệu được một loạt vấn đề như thời gian tồn tại của thời kỳ quá độ, hình thái các bước chuyển tiếp, hình hài của chủ nghĩa xã hội khi nó thắng lợi hoàn toàn và triệt để, ở nước này hay nước khác cũng như trên phạm vi thế giới...

Về mâu thuẫn thời đại

Một vấn đề mới là sự phân tích về các mâu thuẫn của thời đại. Cũng giống như trên, vấn đề thời đại, nhiều ý kiến cho rằng, không nên đề cập những mâu thuẫn của thời đại vì trong thời đại "hậu chiến tranh lạnh", "toàn cầu hóa", "hội nhập" việc đề cập những mâu thuẫn của thời đại là không phù hợp, thậm chí lỗi thời, lạc lõng. Cách đặt vấn đề như vậy không thỏa đáng vì sự tồn tại và sự vận động của các mâu thuẫn là một thực tế khách quan; muốn hay không thì hằng ngày hằng giờ trên thế giới vẫn diễn ra sự vận động cực kỳ sôi động, vả lại không tiếp cận các mâu thuẫn của thời đại thì cũng khó bề phân tích được phương hướng phát triển của thời đại, khó bề lý giải nhiều sự kiện trên thế giới, khó bề xử lý một cách thỏa đáng nhiều tình huống cụ thể...

Phải chăng vì những lẽ đó, các Ðại hội VII, VIII và IX của Ðảng ta đều khẳng định các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới.

So với Nghị quyết 9 (khóa III), cách tiếp cận của Ðảng ta về các mâu thuẫn thời đại nêu trong Cương lĩnh 1991 có nhiều điểm mới.

Một là, thay vì nêu mâu thuẫn giữa "phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa" như trước đây, Cương lĩnh đề cập mâu thuẫn "giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt". Sở dĩ vậy không chỉ vì không còn "phe" xã hội chủ nghĩa nữa mà còn vì cách đề cập trước đây chỉ khoanh lại trong phạm vi mâu thuẫn giữa hai phe, chưa bao quát được cuộc đấu tranh giữa hai chiều hướng ngay trong lòng mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới;

Hai là, khi đề cập mâu thuẫn giai cấp trong lòng các nước tư bản phát triển, Nghị quyết 9 chỉ đề cập mâu thuẫn "giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản", Cương lĩnh 1991 đã vạch rõ "mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc", đồng thời chỉ ra mâu thuẫn "giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển". Cách tiếp cận như vậy sâu hơn và chuẩn xác hơn, phản ánh chân thực hơn thực tiễn khách quan, mô tả bao quát hơn bức tranh toàn cảnh ở các nước tư bản phát triển, khi nhiều tầng lớp nhân dân rộng rãi chứ không riêng gì giai cấp công nhân tham gia cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ; các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn giành giật nhau gay gắt, nhiều khi đưa tới các cuộc xung đột, chiến tranh kinh tế - thương mại khốc liệt.

Ba là, do hệ thống thuộc địa đã tan rã, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã được độc lập ở mức độ khác nhau nên thay vì nêu "mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân" như trong Nghị quyết Trung ương 9, nay Ðảng ta nêu lên "mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển tăng lên".

Bốn là, nếu như trước đây nhấn mạnh "hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người" thì nay, trong Cương lĩnh 1991 Ðảng ta chỉ rõ: "Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và sự đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản". Cách đề cập như vậy không chỉ vì không còn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới mà chủ yếu vì cách đề cập như vậy biện chứng hơn; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ diễn biến thế nào là do sự vận động của chính bản thân mâu thuẫn cơ bản trong lòng CNTB và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động ở chính các nước đó quyết định chứ không phải do hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới từ bên ngoài đem lại (cho dù nó tồn tại và hùng mạnh đi nữa). Lịch sử cũng cung cấp cho ta không ít bài học về tình trạng thiếu bền vững của các chính thể hình thành do sự trợ giúp từ bên ngoài trong khi các nhân tố bên trong chưa chín muồi, cho dù chính thể đó về khách quan mang tính tiến bộ.

Năm là, nay không còn xếp loại "mâu thuẫn cơ bản", "mâu thuẫn cơ bản nhất", "mâu thuẫn chủ yếu" như trước đây vì mỗi loại mâu thuẫn có vai trò và phạm vi tác động của nó, giữa chúng không có bức "Vạn lý trường thành" ngăn cách mà đan xen nhau, tác động qua lại lẫn nhau, và như Cương lĩnh đã nêu, chính sự vận động của tất cả các mâu thuẫn sẽ là động lực thúc đẩy tiến trình phát triển của lịch sử. Nói như vậy không có nghĩa là từng lúc, từng nơi không nổi lên những mâu thuẫn này hay mâu thuẫn khác mang tính chính yếu.

Cũng cần nói ngay rằng, mâu thuẫn thời đại là phạm trù cực kỳ phức tạp chẳng khác nào tính phức tạp của thế giới, trong nhiều trường hợp nó không thật rạch ròi, do đó không thể tiếp cận một cách máy móc, giản đơn. Trong cuộc sống của nhân loại còn không ít những hiện tượng, quá trình rối rắm, khó bề lý giải nếu như chỉ vận dụng những khái niệm mâu thuẫn về giai cấp. Giải thích thế nào hiện tượng một số nước về bản chất giai cấp không có mâu thuẫn đối kháng song đã từng mâu thuẫn, kình địch, thậm chí tiến hành chiến tranh chống lại nhau? Làm thế nào giải thích được hiện tượng các nước đối nghịch nhau về bản chất chế độ lại liên minh chống lại những nước cùng chế độ với bên này hay bên kia? Nguồn gốc các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc, chủ nghĩa khủng bố hiện nay đang diễn ra hằng ngày cũng còn đang chờ sự lý giải thấu đáo.

Về chiến tranh và hòa bình

 

Bên cạnh việc đánh giá thời đại và những mâu thuẫn của thời đại, việc đánh giá khả năng chiến tranh và hòa bình luôn luôn có tầm quan trọng đặc biệt đối với vận mệnh của các dân tộc cũng như đối với việc hoạch định chính sách.

 

Nếu như Nghị quyết Trung ương 9 (khóa III) còn nêu: "Nhân dân các nước đứng trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới", thậm chí Ðại hội VI vẫn đánh giá rằng, chưa bao giờ nguy cơ chiến tranh hạt nhân lại lớn như hiện nay thì Ðại hội VIII đã nêu nhận định "Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi" và đến Ðại hội IX, Ðảng ta nói rõ thêm: "Trong vài thập kỷ tới ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới". Cách tiếp cận mới về mặt này bắt nguồn từ sự đánh giá rằng: "Hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới" (Ðại hội VIII) được khẳng định lại tại Ðại hội IX: "Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc".

 

Vả lại hai cuộc chiến tranh thế giới diễn ra trong thế kỷ 20 đều bắt nguồn từ sự giành giật quyết liệt giữa các nước đế quốc; ngày nay mâu thuẫn giữa họ với nhau không hề thuyên giảm, song trong tương quan giữa họ vừa có một siêu cường vượt trội có điều kiện áp đặt ý muốn của mình bằng nhiều phương cách, vừa có một sự "cân bằng" nào đó giữa các trung tâm chủ yếu, tính tùy thuộc lẫn nhau rất lớn và đã hình thành những cơ chế cần thiết để dung hòa lợi ích. Hơn nữa, một cuộc chiến tranh thế giới trong điều kiện ngày nay khó tránh khỏi trở thành chiến tranh hạt nhân hủy diệt, mọi nước tham chiến đều sẽ gánh chịu những hậu quả không thể lường được.

 

Mặt khác, Ðảng ta không hề nuôi ảo tưởng về một thế giới êm đềm, sóng yên biển lặng. Trái lại, Ðại hội VIII đã nhấn mạnh, "xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi". Mỗi hiện tượng trên đều bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau, nhiều trường hợp có nguồn gốc từ sự bất công đưa tới tình trạng bần cùng của nhiều quốc gia, nhiều tầng lớp dân cư, từ chủ nghĩa cường quyền, dưới chiêu bài này hay chiêu bài khác, nhiều khi rất mỹ miều, áp đặt ý muốn, mô hình phát triển mà thực chất là quyền thống trị của mình đối với các quốc gia, dân tộc khác. Bất luận thế nào thì lời kêu gọi thuở nào của chiến sĩ chống phát-xít nổi tiếng người Tiệp Khắc Iu-li-út Phu-xích: "Loài người hãy cảnh giác" trong cuốn Viết dưới giá treo cổ vẫn còn nguyên giá trị!

 

Về cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hóa

 

Ði đôi với việc phân tích các khía cạnh chính trị - xã hội của thế giới ngày nay, Ðảng ta đã dành mối quan tâm lớn tới sự đánh giá các chiều hướng phát triển của lực lượng sản xuất mà nổi lên là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, ảnh hưởng trực tiếp sự phát triển của nước ta.

 

Thật ra, Ðảng ta đã đề cập rất sớm sự phát triển của khoa học - công nghệ trên thế giới. Ngay tại Ðại hội lần thứ II của Ðảng họp trong rừng Việt Bắc, Báo cáo chính trị đã đánh giá rằng, "Năm mươi năm vừa qua có những biến đổi mau chóng hơn và quan trọng hơn nhiều thế kỷ trước cộng lại. Trong 50 năm đó, đã có những phát minh như chiếu bóng, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình (television) cho đến sức nguyên tử. Nghĩa là loài người đã tiến một bước dài trong việc điều khiển thiên nhiên".

 

Tới Ðại hội IV (1976), cách mạng khoa học - kỹ thuật đã được coi là "then chốt" trong ba cuộc cách mạng (bên cạnh cách mạng về quan hệ sản xuất và cách mạng về tư tưởng và văn hóa).

 

Bước vào thời kỳ đổi mới, Ðại hội VI nhấn mạnh, "Một đặc điểm nổi bật là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra mạnh mẽ, tạo thành bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất và đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa các lực lượng sản xuất".

 

Và trong Cương lĩnh được thông qua tại Ðại hội VII đã nhận định rằng, "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc.

 

Cuộc cánh mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra một cách mạnh mẽ, cuốn hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là những nước lạc hậu về kinh tế".

 

Các Ðại hội VIII và IX của Ðảng đều khẳng định những nhận định nêu trên, đặc biệt trong văn kiện Ðại hội IX có hai nét mới là: Ðã đánh giá "kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất; thay vì nêu khái niệm "quốc tế hóa" đã nhấn mạnh một khái niệm rộng hơn về phạm vi và sâu hơn về nội dung là: "toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh".

 

Ngoài những vấn đề trên, Ðại hội VIII và Ðại hội IX còn chỉ ra những xu thế chủ yếu về hòa bình, ổn định và hợp tác, về sự liên kết kinh tế; về ý thức độc lập, tự chủ của các dân tộc; các nước XHCN, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ kiên trì đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hòa bình...

 

Những nhận thức trên không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, ảnh hưởng trực tiếp việc hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương của Ðảng và Nhà nước ta. Ðương nhiên, bức tranh toàn cảnh của thế giới ngày nay và nhất là của cả thời đại quá độ còn rộng lớn, đa dạng hơn nhiều và biến đổi không ngừng, các văn kiện của Ðảng ta không thể bao quát hết; dư địa cho sự nghiên cứu sâu sắc hơn, toàn diện hơn còn rất lớn, đòi hỏi phải huy động trí tuệ sáng tạo của toàn Ðảng, toàn dân để có những đánh giá, dự báo đầy đủ hơn, chuẩn xác hơn.

 

Những sự đổi mới trong đường lối, chính sách đối ngoại

 

Xuất phát từ những nhận thức mới về thời đại và những xu thế chủ yếu trong thế giới ngày nay, từ yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Ðảng ta đã có những sự đổi mới rất sâu sắc về đường lối và chính sách đối ngoại.

 

Ðiều có tầm quan trọng hàng đầu là xác định chuẩn xác mục tiêu của đường lối, chính sách đối ngoại. Ðối với nước nào cũng vậy, hoạt động đối ngoại không theo đuổi những mục đích tự thân mà là sự nối tiếp của chính sách đối nội, phục vụ ba yêu cầu gắn bó mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau là "an ninh", "phát triển" và "vị thế quốc tế" của đất nước. Ðối với nước ta sau ngày thống nhất đất nước, mục tiêu của đường lối đối ngoại luôn luôn được xác định là phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nói một cách khác, mục tiêu của đường lối đối ngoại bao gồm hai vế: nghĩa vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.

 

Cái mới là khi bước vào thời kỳ đổi mới, Ðảng ta coi việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Ðiều đó cũng dễ hiểu vì một khi đất nước đã giành được độc lập, thống nhất đồng thời lại đứng trước nguy cơ tụt hậu về trình độ phát triển kinh tế so với nhiều nước khác thì nhiệm vụ trung tâm của nước ta là phát triển kinh tế - xã hội. Chính sách đối ngoại tất yếu phải phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm này.

 

Ở đây cần nhấn mạnh rằng, hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn luôn gắn bó mật thiết với nhau; nước không mạnh thì khó bề củng cố lực lượng vũ trang về mặt trang bị kỹ thuật để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, nhất là trong hoàn cảnh ngày nay không thể trông mong vào sự tài trợ vật chất từ bên ngoài cho sự nghiệp này, mặt khác không bảo vệ được an ninh cho Tổ quốc thì cũng không thể có điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển kinh tế. Ðồng thời cũng cần nói rõ rằng, cách đặt vấn đề như trên hoàn toàn không có nghĩa là Ðảng ta rơi vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chỉ khư khư chăm lo cho lợi ích của nước mình; trên thực tế chúng ta luôn luôn cố gắng đóng góp vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của nhân dân thế giới dưới những hình thức thích hợp.

 

Ðể đạt được mục tiêu chủ yếu trong đường lối đối ngoại, điều có ý nghĩa rất quan trọng và xác định chuẩn xác tư tưởng chỉ đạo. Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) đã nhấn mạnh tư tưởng "giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí và hoàn cảnh của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có thể quan hệ".

 

Cách đặt vấn đề như vậy vừa phản ánh một đặc điểm nổi bật của "trường phái ngoại giao Việt Nam" từ ngàn xưa theo tinh thần "lạt mềm buộc chặt" được phát triển lên thành nghệ thuật trong thời đại Hồ Chí Minh với phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", vừa phản ánh thực tế rất đa dạng, đầy biến động trong thế giới ngày nay. Thực tiễn mấy chục năm qua chứng tỏ rõ rệt rằng, ngoại giao Việt Nam chỉ giành thắng lợi một khi quán triệt hai mặt gắn quyện chặt chẽ với nhau: giữ vững nguyên tắc đi đôi với vận dụng sách lược linh hoạt.

 

Phù hợp với cách đề cập trên, tiếp nối tư tưởng "thêm bạn bớt thù", tính đến thực tế khách quan hết sức đa dạng trong thế giới ngày nay, Ðảng ta đã xác định một phương châm nay trở nên rất quen thuộc là "đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế". Ða dạng hóa, đa phương hóa ở đây được hiểu là trên cả ba mặt: đối tượng, hình thức quan hệ và chủ thể tham gia.

 

Về đối tượng quan hệ, Ðại hội VII đã đưa ra khẩu hiệu "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" và Ðại hội IX bổ sung thêm ý Việt Nam không chỉ sẵn sàng là bạn mà còn sẵn sàng là "đối tác tin cậy" của các nước trong cộng đồng quốc tế. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) đã đưa ra một khái niệm rất mới về đối tượng và đối tác, phân tích một cách biện chứng rằng, trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác vẫn có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên tinh thần đó chúng ta đã ra sức thiết lập và phát triển quan hệ với mọi quốc gia có chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau. Cũng với tinh thần ấy về đường Ðảng và đoàn thể quần chúng, chúng ta đã thiết lập quan hệ ở mức độ khác nhau với nhiều đảng phái, tổ chức, lực lượng khác nhau.

 

Ði đôi với cách tiếp cận trên chúng ta theo đuổi một phương châm khác là: Trong quan hệ quốc tế luôn luôn có hai mặt hợp tác và đấu tranh. Về phần mình chúng ta luôn luôn mong muốn và ra sức thúc đẩy mặt hợp tác bình đẳng cùng có lợi song cũng không chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của nước ta. Chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh này không để phá vỡ sự hợp tác mà nhằm làm cho sự hợp tác lành mạnh hơn.

 

Ðiều đó không có nghĩa là chúng ta theo chủ nghĩa trung dung, thái độ ba phải, không phân biệt trắng đen. Chúng ta vẫn phải lấy thước đo giai cấp và dân tộc để phân biệt phải trái, song trong hành xử thì tình hình thực tế và lợi ích của đất nước đòi hỏi phải có cách tiếp cận hết sức biện chứng và linh hoạt, lấy lợi ích cao nhất của dân tộc làm thước đo.

 

Về hình thức quan hệ, ngoại giao ngày nay không chỉ tập trung vào quan hệ chính trị mà các nội dung kinh tế, văn hóa và quốc phòng - an ninh chiếm vị trí ngày càng quan trọng. Các mối quan hệ này gắn quyện với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ chính trị (bao gồm cả quốc phòng - an ninh) là tiền đề, quan hệ kinh tế, là cơ sở, quan hệ văn hóa là nhân tố góp phần gia tăng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.

 

Cái mới nữa là trong xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa, bên cạnh quan hệ song phương, quan hệ đa phương thể hiện trong sự giao lưu trên các diễn đàn, tổ chức đa phương có vai trò rất lớn. Không phải ngẫu nhiên mà trong thời gian qua Nhà nước ta đã gia nhập và tích cực hoạt động trong hàng loạt tổ chức khu vực và quốc tế, đóng góp phần mình vào việc bảo vệ hòa bình, chủ quyền của các dân tộc, thiết lập trật tự chính trị và kinh tế quốc tế dân chủ và bình đẳng, đẩy mạnh hợp tác vì sự phát triển.

 

Một hướng mới rất quan trọng nữa là các Ðại hội VIII và IX đã đặt cao nhiệm vụ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế do nhu cầu nội tại của nền kinh tế nước ta cần mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn và công nghệ phục vụ cho sự nghiệp CNH, HÐH cũng như từ nhận thức về xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ.

 

Về các chủ thể tham gia thì nước ta vốn có truyền thống huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng tham gia các hoạt động đối ngoại. Ngày nay truyền thống ấy vẫn được phát huy với nét mới là: Bên cạnh các hoạt động của Ðảng, Chính phủ và các đoàn thể chính trị - xã hội, Quốc hội, các hiệp hội ngành nghề, các cơ quan quốc phòng - an ninh, các địa phương, các doanh nghiệp cũng rầm rộ "vào trận".

 

Trong thời kỳ đổi mới, với nhận thức "họ hàng xa không bằng láng giềng gần" chúng ta luôn dành ưu tiên cao cho việc xây dựng và củng cố quan hệ láng giềng hữu nghị với các nước láng giềng trên cả ba tầng nấc: Các nước có chung biên giới, các nước trong khu vực Ðông - Nam Á và các nước châu Á - Thái Bình Dương. Nói một cách khác, ưu tiên hàng đầu của chúng ta là tạo ra môi trường quốc tế liên quan trực tiếp nhất tới sự ổn định và sự phồn vinh của nước ta.

 

Mặc dù trước sau như một chúng ta luôn phấn đấu cho sự bình đẳng giữa các quốc gia song có một thực tế là các nước và các trung tâm lớn vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong thế giới ngày nay, kể cả đối với an ninh và sự phát triển của nước ta, do đó chúng ta không thể không dành mối quan tâm thỏa đáng tới quan hệ với họ.

 

Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta xem nhẹ mối quan hệ với các nước, các lực lượng cách mạng và tiến bộ, những người yêu chuộng hòa bình và công lý vốn có quan hệ truyền thống với nước ta, đã từng hết lòng ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, thống nhất đất nước. Với nhận thức như vậy chúng ta không những không lãng quên bạn bè mà còn làm mọi việc có thể để không ngừng củng cố quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước và các lực lượng này.

 

Trên đây là một số sự đổi mới trong nhận thức về thế giới đương đại cũng như trong đường lối, chính sách đối ngoại của Ðảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới; do khuôn khổ bài viết có hạn nên chỉ có thể đề cập dưới dạng giản lược. Hơn nữa tình hình thế giới còn diễn biến hết sức phức tạp, cho nên không thể nghĩ rằng mọi việc đều đã an bài, những nhận thức và chủ trương có được đã là chân lý cuối cùng. Trái lại cuộc sống đòi hỏi phải luôn luôn bám sát thực tế, vận dụng sáng tạo phương pháp luận khoa học để đánh giá ngày càng sâu sắc và chuẩn xác hơn cục diện thế giới, đề ra đường lối, chính sách hoàn chỉnh hơn, phục vụ đắc lực hơn hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công cuộc CNH, HÐH, vươn tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

VŨ KHOAN

 

1) V.I.Lê-nin, Toàn tập, tập 26, NXB Tiến bộ, Moscow, 1980, tr.174.

 

 
Back Top page Print Email

Related news:

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn 
Hiển thị tốt nhất với Internet Explorer. Best viewed with Internet Explorer