Ngoại giao Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất nước
Nhìn lại năm 2010, mặc dù những chuyển biến nhanh chóng của tình hình thế giới và khu vực đã đặt ra không ít thách thức nhưng chúng ta vẫn vững vàng vượt qua mọi khó khăn thử thách, tận dụng thành công những nhân tố thuận lợi để vươn lên trong quá trình hội nhập và phát triển. Kinh tế thế giới tuy còn bấp bênh, song đã phục hồi rõ nét hơn và đi vào thời kỳ hậu khủng hoảng với sự đồng thuận cao của cộng đồng quốc tế cùng hướng tới một khuôn khổ tăng trưởng cân bằng và bền vững hơn. Một thế giới “đa trung tâm” đang định hình ngày càng rõ nét; quá trình sắp xếp lại các cơ chế quốc tế và cấu trúc khu vực đang diễn ra sôi động. Hợp tác đa phương được coi là phương thức hữu hiệu để xử lý các vấn đề chung của thế giới như các thách thức kinh tế, biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống..., trong đó vai trò và tiếng nói của các nền kinh tế mới nổi ngày càng được nâng cao. Về chính trị - an ninh, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, mặc dù xung đột cục bộ, các điểm nóng ở khu vực vẫn diễn biến phức tạp, thậm chí có lúc, có nơi rất gay gắt. Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực hội tụ nhiều cơ hội lớn với môi trường chính trị - an ninh cơ bản ổn định, kinh tế phục hồi mạnh mẽ, các nước lớn và các trung tâm chính trị - kinh tế của thế giới dành sự quan tâm ngày càng cao đến khu vực này. Các nước Đông Nam Á đang tiến những bước vững chắc hướng tới một cộng đồng ASEAN năng động và phát triển, có quan hệ ngày càng sâu rộng với các đối tác lớn và giữ vai trò nòng cốt trong các cơ chế hợp tác khu vực.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam xác định nhiệm vụ hàng đầu của đối ngoại năm 2010 là tranh thủ tối đa mọi cơ hội, hóa giải những thách thức đặt ra nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; tận dụng các nguồn lực bên ngoài để phục vụ thiết thực cho đất nước bước sang giai đoạn phát triển nhanh và bền vững, đồng thời không ngừng nâng cao vị thế quốc tế, phục vụ các mục tiêu an ninh và phát triển. Các trọng tâm đặt ra cho năm qua là hoàn thành tốt năm Chủ tịch ASEAN, triển khai mạnh mẽ và toàn diện các hoạt động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế đã thu được những kết quả rất quan trọng, tạo đà cho đối ngoại Việt Nam vững bước tiến vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21.
Năm Chủ tịch ASEAN – Dấu ấn của ngoại giao đa phương.
Việc Việt Nam đảm nhiệm thành công cương vị Chủ tịch ASEAN là thành tựu nổi bật nhất của ngoại giao đa phương cũng như của đối ngoại Việt Nam trong năm 2010. Với chủ đề "Hướng tới cộng đồng ASEAN: từ tầm nhìn đến hành động", chúng ta đã chủ trì thành công các Hội nghị cấp cao ASEAN 16 và 17, Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA), Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị những người đứng đầu các cơ quan an ninh ASEAN (MACOSA) và nhiều hoạt động quan trọng khác. Việt Nam đã ghi đậm dấu ấn của mình bằng những đóng góp, sáng kiến có giá trị trong nhiều vấn đề quan trọng của Hiệp hội, đáng chú ý là Việt Nam đã góp phần tạo chuyển biến về chất trong tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN, các sáng kiến về kết nối ASEAN, thúc đẩy đồng thuận về sự cần thiết phải duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực, thúc đẩy các bên liên quan đi vào triển khai Tuyên bố ASEAN – Trung Quốc về ứng xử ở Biển Đông (DOC) và hướng tới bộ Quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC), củng cố vững chắc vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc khu vực đang định hình, thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa ASEAN với các đối tác quan trọng trong tất cả các lĩnh vực. Trong xử lý những vấn đề phức tạp ở khu vực, Việt Nam đã thể hiện vai trò là một chủ tịch có trách nhiệm, tích cực vì lợi ích chung trong nỗ lực nâng cao vị thế quốc tế của Hiệp hội.
Không chỉ dồn sức cho năm Chủ tịch ASEAN, ngoại giao đa phương còn được triển khai rộng khắp trên nhiều lĩnh vực từ cấp độ tiểu khu vực, liên khu vực đến cấp độ toàn cầu. Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia các hoạt động trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, tại các hội nghị, diễn đàn đa phương về hợp tác sông Mê-công, Diễn đàn Á – Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APEC), G-20... Những đóng góp của chúng ta trong việc giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu như an ninh hạt nhân, biến đổi khí hậu, thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ... phản ánh nỗ lực và vai trò của Việt Nam với tư cách là một “thành viên chủ động, tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”.
Tăng cường các mối quan hệ đối tác – Trọng điểm của ngoại giao song phương.
Trong năm 2010, ngoại giao song phương đã có những bước tiến vững chắc trong quá trình đưa các mối quan hệ đối tác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững; đã tận dụng tốt các cơ hội mà ngoại giao đa phương mang lại, nhất là trong vai trò Chủ tịch ASEAN, để làm sâu sắc thêm khuôn khổ quan hệ với các đối tác, nhất là với các nước láng giềng, các nước ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các nước lớn.
Với Trung Quốc, mối quan hệ "đối tác hợp tác chiến lược toàn diện" tiếp tục phát triển với nhiều hoạt động đa dạng, thiết thực trong "Năm hữu nghị Việt - Trung", kỷ niệm 60 năm hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai bên đã trao đổi đoàn ở nhiều cấp, ngành, địa phương; lần đầu tiên tổ chức thành công đối thoại chiến lược về an ninh quốc phòng và diễn tập chung về cứu nạn trên biển, qua đó tăng cường sự tin cậy, tình hữu nghị và thúc đẩy hợp tác trên nhiều lĩnh vực. Hợp tác kinh tế Việt – Trung trong năm 2010 đã đạt dấu mốc mới với kim ngạch thương mại hai chiều vượt mục tiêu 25 tỷ USD. Về biên giới lãnh thổ, hai bên đã công bố 3 văn kiện pháp lý quan trọng, chính thức hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hai bên đã tiến hành đàm phán cấp chuyên viên về các nguyên tắc chỉ đạo giải quyết các vấn đề tồn tại trên biển và phân định khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ. Quan hệ đặc biệt với Lào và hợp tác toàn diện với Cam-pu-chia tiếp tục được củng cố và tăng cường, nhất là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. Việt Nam và Lào thống nhất lấy năm 2010 là năm tăng tốc cắm mốc; đã tích cực triển khai và đạt được nhiều kết quả thiết thực trong việc tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới. Việt Nam đã chủ động phối hợp tốt với Cam-pu-chia để đẩy nhanh công tác phân giới cắm mốc trên bộ. Quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước Đông Nam Á khác được đẩy mạnh cả trên bình diện song phương cũng như trong khuôn khổ ASEAN. Quan hệ hữu nghị và hợp tác với Mi-an-ma đã bước sang một giai đoạn mới về chất với việc hai nước thống nhất thúc đẩy hợp tác trên 12 lĩnh vực ưu tiên; sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau không ngừng được tăng cường, đặc biệt là sau chuyến thăm Mi-an-ma của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng (tháng 4/2010). Quan hệ với các nước In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xinh-ga-po, Thái Lan, Phi-lip-pin và Bru-nây không ngừng được củng cố và phát triển.
Việt Nam đang từng bước thiết lập và hoàn thiện các khuôn khổ hợp tác mang tính chất chiến lược với các nước lớn trên thế giới, đồng thời đưa quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới đi vào chiều sâu. Quan hệ "đối tác chiến lược" với Liên bang Nga đi vào giai đoạn thực chất với việc hai nước nhất trí triển khai danh mục các vấn đề hợp tác ưu tiên, đặc biệt là dự án điện hạt nhân, dầu khí, hợp tác kỹ thuật quân sự... Với Mỹ, hai bên tích cực thúc đẩy quan hệ "đối tác hữu nghị, hợp tác nhiều mặt, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi", hướng tới một khuôn khổ đối tác sâu rộng, bền vững trong dài hạn. Hai bên đã tổ chức các hoạt động kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ, tiến hành đối thoại chính trị - an ninh - quốc phòng lần thứ ba, đối thoại quốc phòng cấp thứ trưởng, phối hợp chặt chẽ trong cơ chế hợp tác tiểu vùng sông Mê công. Việt Nam chủ trương đối thoại với Mỹ về những vấn đề mà hai bên có quan điểm khác nhau về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tích cực giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh với những hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Quan hệ với Liên minh châu Âu (EU) có bước đột phá với việc hai bên ký tắt Hiệp định đối tác và hợp tác toàn diện (PCA) sau 9 vòng đàm phán và tuyên bố sẽ khởi động đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA), mở ra cơ hội mới cho hai bên phát triển quan hệ toàn diện và sâu rộng trong thời gian tới. Các hoạt động đối ngoại song phương với từng nước thành viên EU được triển khai sôi động với việc tăng cường trao đổi đoàn và tiếp xúc bên lề các hội nghị quốc tế. Tiếp theo việc nâng cấp quan hệ với Tây Ban Nha, Việt Nam đã chính thức ký Tuyên bố chung thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Anh, tiếp tục triển khai các biện pháp tăng cường hợp tác thực chất với Đức, Pháp, I-ta-li-a và các nước EU khác. Việc chúng ta duy trì tốt các kênh đối thoại về dân chủ, nhân quyền với EU, cùng với những bước đi phù hợp trong quan hệ với Va-ti-căng và hiệu ứng lan tỏa từ sự tham gia của Việt Nam tại Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc, Cơ quan liên chính phủ về nhân quyền của ASEAN... đã góp phần đề cao thiện chí của Việt Nam, giảm thiểu những tác động bất lợi trong quá trình triển khai quan hệ với EU cũng như với những đối tác khác. Quan hệ “đối tác chiến lược” với Nhật Bản và Hàn Quốc tiếp tục được cụ thể hóa với trọng tâm là hợp tác kinh tế và phát triển. Việt Nam đã chọn Nhật Bản là đối tác hợp tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân số 2 và thăm dò, khai thác, chế biến đất hiếm tại Việt Nam, đồng thời Nhật Bản cam kết sẽ tiếp tục dành cho Việt Nam trên 1,7 tỷ USD vốn viện trợ phát triển cho năm tài khóa tới. Các mối quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ, đối tác toàn diện với Ốt-xtrây-lia và Niu Di Lân tiếp tục được triển khai với nhiều dự án thiết thực, cụ thể.
Trong triển khai chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam luôn coi trọng và quan tâm thúc đẩy quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, tăng cường sự gắn bó, đoàn kết, tin cậy và hợp tác. Quan hệ với Cu-ba tiếp tục được thúc đẩy với chuyến thăm Cu-ba của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng nhân dịp hai nước kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Chúng ta đã tiến hành các biện pháp chủ động thúc đẩy quan hệ với các nước châu Phi, tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam – châu Phi lần thứ 2, tăng cường trao đổi đoàn với các đối tác tiềm năng châu Phi, tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp hai bên triển khai hợp tác kinh tế, nhất là trong các lĩnh vực mà ta có thế mạnh như viễn thông, nông lâm nghiệp, thủy sản... Quan hệ với các đối tác tiềm năng ở Trung Đông, vùng Vịnh và khu vực Mỹ La-tinh ngày càng đi vào thực chất hơn với các dự án hợp tác cụ thể về kinh tế, đầu tư, lao động...
Ngoại giao toàn diện được triển khai mạnh mẽ
Trong quá trình đi lên cùng đất nước, vai trò của ngoại giao Việt Nam ngày càng được nâng cao, không chỉ về chính trị đối ngoại, mà còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh tế đối ngoại, văn hóa đối ngoại... Công tác ngoại giao toàn diện đã được triển khai mạnh mẽ với sự hài hòa, gắn bó chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, Quốc hội, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, cũng như sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa Bộ Ngoại giao với các ngành, các cấp, các địa phương, đặc biệt là giữa ngoại giao, quốc phòng và an ninh.
Phát huy thế mạnh của mạng lưới hơn 90 cơ quan đại diện tại khắp 5 châu lục, ngoại giao kinh tế đã có những đóng góp tích cực, nhất là trong công tác tham mưu cho Chính phủ về những chủ trương, quyết sách hội nhập quan trọng như quyết định tham gia đàm phán Hiệp ước đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP) với tư cách thành viên chính thức cũng như chủ trương tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA) khác. Không những thế, ngoại giao kinh tế còn làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo về kinh tế thế giới, tìm hiểu kinh nghiệm các nước về quá trình phục hồi và tái cấu trúc kinh tế để phục vụ công tác hoạch định chính sách và điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ. Kinh tế đối ngoại được lồng ghép trong chính trị đối ngoại, nội dung kinh tế được tăng cường trong các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao. Việc chúng ta chủ động đăng cai và tổ chức thành công nhiều diễn đàn kinh tế quan trọng như Diễn đàn Kinh tế Đông Á, các Hội nghị Bộ trưởng Mê công – Mỹ và Mê công – Nhật Bản cũng như tích cực đóng góp với nhiều sáng kiến có chất lượng tại các diễn đàn khác như G-20, Diễn đàn Kinh tế thế giới Đa-vốt... đã góp phần thu hút sự chú ý của thế giới đến Việt Nam, một nền kinh tế mở cửa, năng động và có nhiều tiềm năng hợp tác. Ngoại giao cũng góp phần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu, thúc đẩy hợp tác đầu tư, du lịch, phối hợp xử lý các tranh chấp quốc tế, vận động, đấu tranh với các nước, các đối tác nhằm loại bỏ những biện pháp bảo hộ mậu dịch bất công nhằm vào các sản phẩm của Việt Nam...
Phát huy những thắng lợi của “Năm Ngoại giao Văn hóa 2009”, công tác ngoại giao văn hóa đã có nhiều khởi sắc, hỗ trợ hiệu quả cho việc triển khai các hoạt động của năm ASEAN cũng như các sự kiện chính trị lớn của năm 2010. Về dài hạn, Bộ Ngoại giao đang phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng và hoàn thiện Chiến lược Ngoại giao Văn hóa đến năm 2020, từng bước chuẩn hóa các tiêu chí và hoạt động văn hóa đối ngoại để áp dụng rộng rãi trong và ngoài nước. Dấu ấn đáng tự hào của ngoại giao văn hóa trong năm 2010 là chúng ta đã vận động thành công UNESCO công nhận Hoàng thành Thăng Long là Di sản văn hóa thế giới, đúng vào dịp Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội. Ngành Ngoại giao cũng đã và đang tích cực hỗ trợ các địa phương phát huy các giá trị của di sản, tích cực quảng bá văn hóa, du lịch... trực tiếp phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của nhiều địa phương trên cả nước. Công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại được cải tiến hơn về nội dung và hình thức, phục vụ đắc lực cho việc triển khai các trọng tâm đối ngoại năm 2010.
Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được triển khai mạnh mẽ, tạo không khí phấn khởi, tin tưởng trong cộng đồng và tăng thêm tình cảm cũng như sự gắn bó của bà con kiều bào với đất nước. Trên cơ sở tổng kết 6 năm triển khai Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, chúng ta tiếp tục rà soát và tháo gỡ những vướng mắc đối với kiều bào như vấn đề quốc tịch, cư trú, hồi hương, quyền mua và sở hữu nhà ở trong nước... Công tác vận động và hỗ trợ cộng đồng được cải tiến phong phú hơn cả về nội dung và hình thức, các Đề án lớn về chính sách, biện pháp thu hút chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài xây dựng đất nước giai đoạn 2010 - 2020, Đề án đẩy mạnh dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài... tiếp tục được triển khai tích cực. Công tác bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện thường xuyên, kịp thời và hiệu quả; Bộ Ngoại giao đã thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về di cư, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Chính phủ, các địa phương, doanh nghiệp xử lý thỏa đáng các vấn đề liên quan người lao động Việt Nam ở các nước, vấn đề ngư dân gặp nạn hoặc bị bắt giữ trên biển.
Cùng với ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng được triển khai tích cực và hiệu quả, củng cố quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản, các chính đảng và đảng cầm quyền, đặc biệt góp phần tăng cường tin cậy và hữu nghị với các nước láng giềng. Đối ngoại Quốc hội được triển khai tích cực và chủ động, nổi bật nhất là Quốc hội Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc vai trò Chủ tịch AIPA và tổ chức thành công Đại hội đồng AIPA lần thứ 31, tham dự có hiệu quả Hội nghị tham vấn Nghị viện G-20, đánh dấu bước trưởng thành của Ngoại giao Nghị viện Việt Nam. Ngoại giao nhân dân hỗ trợ đắc lực cho các kênh đối ngoại chính thức với nhiều hoạt động có ý nghĩa chính trị cao như Diễn đàn nhân dân và Liên hoan thanh niên Việt – Trung, Gặp gỡ hữu nghị và hợp tác nhân dân Việt Nam – Lào – Cam-pu-chia, các hoạt động đòi công lý cho các nạn nhân chất động da cam/dioxin... Công tác ngoại vụ địa phương được quan tâm thúc đẩy theo hướng tăng cường sự hỗ trợ của ngành ngoại giao nhằm nâng cao vai trò và năng lực của các cơ quan ngoại vụ địa phương. Cơ chế thống nhất quản lý đối ngoại được hoàn thiện với việc ban hành Quy chế mới về thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại và triển khai đồng bộ Luật về Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài.
Bên cạnh những thành tựu kể trên, chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận các vấn đề tồn tại trong công tác đối ngoại để có biện pháp khắc phục thời gian tới. Đó là sự phối hợp không phải lúc nào cũng thực sự chặt chẽ và hiệu quả giữa các Bộ, ngành, địa phương, đoàn thể và doanh nghiệp trong quản lý và triển khai các hoạt động đối ngoại. Việc rà soát, đôn đốc đàm phán và triển khai các thỏa thuận với các đối tác tuy đã có bước tiến lớn, song có lúc có nơi vẫn chưa đủ quyết liệt, mạnh mẽ. Công tác nghiên cứu, thông tin, dự báo đã được tăng cường đáng kể, theo sát được các diễn biến tình hình quốc tế và khu vực và các vấn đề phát sinh nhưng các kiến nghị đối sách cần sâu sắc hơn, kịp thời hơn.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vì sự phát triển bền vững của đất nước.
Năm 2011 có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước ta vì là năm đầu tiên chúng ta triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng XI, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020 và Kế hoạch phát triển 5 năm 2011-2015. Hòa vào dòng chảy chung của thế giới hướng đến thời kỳ tăng trưởng bền vững sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Việt Nam cũng bước vào triển khai chiến lược tăng trưởng mới, hướng tới mục tiêu phát triển nhanh và bền vững nhằm đưa đất nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trong những năm tới, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giữ vững môi trường hoà bình, ổn định và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững của đất nước, đối ngoại Việt Nam cần phát huy cao độ những thành tựu đã đạt được, khắc phục những mặt tồn tại, triển khai các hoạt động đối ngoại chủ động, mạnh mẽ và toàn diện cả song phương và đa phương theo những hướng lớn sau:
Một là, trên cơ sở vị thế quốc tế đạt được trong những năm qua, tiếp tục triển khai các hoạt động hội nhập quốc tế một cách chủ động, mạnh mẽ, toàn diện hơn, phát huy tư cách là thành viên tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, góp phần nâng vị thế quốc tế của Việt Nam lên một tầm cao mới.
Hai là, chủ động cùng với các nước đối tác triển khai mạnh mẽ và hoàn thiện các khuôn khổ quan hệ, nhất là với các đối tác hàng đầu, mang tầm chiến lược hoặc có nhiều tiềm năng hợp tác với Việt Nam nhằm đưa các khuôn khổ này đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững trong thế kỷ 21.
Ba là, tiếp tục nghiên cứu, tìm giải pháp thúc đẩy giải quyết dứt điểm các vấn đề còn tồn tại về biên giới lãnh thổ với các nước láng giềng trên tinh thần bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, duy trì cục diện quan hệ ổn định với các nước liên quan, góp phần củng cố môi trường hoà bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.
Bốn là, tăng cường huy động và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài phục vụ chiến lược tăng trưởng mới, vì sự phát triển bền vững của đất nước. Theo đó, cần sớm xây dựng Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình mới và đề ra lộ trình triển khai, trong đó có việc tham gia các FTA. Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế theo hướng tăng cường nội hàm thực chất, hiệu quả, tích cực và chủ động hơn nữa trong triển khai các hoạt động xúc tiến kinh tế đối ngoại với các đối tác, khai phá các thị trường tiềm năng. Cần làm tốt hơn nữa công tác thông tin, nghiên cứu, dự báo, tham khảo kinh nghiệm phát triển của các nước để tham mưu cho Chính phủ trong công tác hoạch định chính sách.
Năm là, triển khai chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020 trên cơ sở gắn chặt với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế. Tiếp tục phát huy những thành tựu quan trọng của công tác về người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân, hoàn thiện và triển khai tốt các chính sách đối với kiều bào, hỗ trợ kiều bào hội nhập sở tại, giữ gìn bản sắc dân tộc, mở rộng các hoạt động tập hợp, vận động kiều bào hướng về đất nước.
Sáu là, tăng cường thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại; nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp giữa đối ngoại Đảng, Nhà nước, Quốc hội, địa phương và hoạt động ngoại giao nhân dân và đẩy mạnh triển khai Luật về các Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài.
Năm 2010 sôi động đi qua với bao sóng gió, thách thức, đối ngoại Việt Nam đã giành được những thành tựu rất có ý nghĩa và đáng tự hào, cả trên bình diện song phương và đa phương. Những thành tựu đó là cơ sở quan trọng để chúng ta vững tin tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại của Đại hội XI và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới. /.
Phạm Gia Khiêm
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail |