TƯ LIỆU CƠ BẢN NHÀ NƯỚC ĐA DÂN TỘC BÔ-LI-VI-A
I. KHÁI QUÁT:
- Tên nước: Nhà nước Đa Dân tộc Bô-li-vi-a (Estado Plurinacional de Bolivia).
- Thủ đô: La Pát (La Paz).
- Diện tích: 1.098.581 km2.
- Vị trí địa lý: nằm ở miền trung Nam Mỹ, là một trong hai nước ở Nam Mỹ không có biển; Bắc và Đông giáp Bra-xin, Đông Nam giáp Pa-ra-goay, Nam giáp Ác-hen-ti-na, Tây giáp Pê-ru và Tây Nam giáp Chi-lê. Địa hình cao nguyên có dãy An-đết chạy qua, bình nguyên và đồng bằng.
- Dân số: 11,3 triệu (2018).
- GDP: 37,78 tỷ USD (2017).
- GDP/đầu người: 7.600 USD (2017).
- Khí hậu: thay đổi rõ rệt theo độ cao, từ khô lạnh ôn đới tới nhiệt đới nóng ẩm (nhiệt độ trung bình tương ứng ba vùng từ 10oC đến 25oC).
- Tôn giáo: 78% theo Thiên chúa giáo và Công giáo, 18% Tin lành và 4% tôn giáo khác.
- Ngôn ngữ: tiếng Tây Ban Nha, các thổ ngữ Kê-chua, Ay-ma-ra, Goa-ra-ni, Mô-xê-nhô và 127 thổ ngữ khác.
- Tiền tệ: Đồng Bô-li-vi-a-nô, 6,9 BOB = 1 USD (2016).
- Quốc khánh: 6/8 (Ngày Độc lập: 6/8/1825).
- Tổng thống: Hoan Ê-vô Mô-ra-lết Ay-ma (Juan Evo Morales Ayma), tái đắc cử Tổng thống lần thứ 3 liên tiếp, nhiệm kỳ 2015 – 2020, trong cuộc bầu cử ngày 12/10/2014, nhậm chức ngày 22/1/2015.
- Ngoại trưởng: Phéc-nan-đô Oa-na-cu-ni (Fernando Huanacuni, từ 01/2017).
II. LỊCH SỬ:
Trước khi bị người Tây Ban Nha xâm chiếm, Bô-li-vi-a là một trong những nôi phát triển của văn hoá bản địa. Từ năm 1450, Bô-li-vi-a là vùng đất thuộc đế chế In-ca. Năm 1531, Tây Ban Nha xâm chiếm Bô-li-vi-a và đặt vùng đất này dưới sự cai quản của Phó Vương Pê-ru. Trong thời kỳ đô hộ của thực dân Tây Ban Nha, đã nổ ra nhiều cuộc khởi nghĩa của người bản địa. Bô-li-vi-a cũng là một trong những thuộc địa Tây Ban Nha đầu tiên ở Châu Mỹ đánh đổ ách thống trị thực dân. Năm 1824, quân khởi nghĩa của các Tướng Xi-môn Bô-li-va (Simón Bolivar) và An-tô-ni-ô Hô-xê Đê Xu-crê (Antonio José de Sucre) đánh bại quân Tây Ban Nha chiếm đóng. Ngày 6/8/1825, Bô-li-vi-a tuyên bố độc lập và tên nước được đặt là Cộng hoà Bô-li-vi-a để tưởng nhớ đến công lao của Tướng Xi-môn Bô-li-va.
Trong những thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ XX, các chế độ quân sự thay nhau cầm quyền tại Bô-li-vi-a và đã xảy ra nhiều cuộc đảo chính quân sự. Từ đầu những năm 80, cũng như tại nhiều nước Mỹ Latinh khác, chế độ dân chủ được phục hồi ở Bô-li-vi-a.
Trong cuộc tổng tuyển cử tháng 6/2002, ông Gôn-xa-lô Xan-chê đê Lô-xa-đa (Gonzalo Sánchez de Lozada), ứng cử viên của Đảng Phong trào Cách mạng Dân tộc (MNR) đã giành thắng lợi và nhậm chức Tổng thống nhiệm kỳ 2002-2007. Tuy nhiên, do tác động của suy thoái kinh tế liên tục 4 năm trước đó, tình hình tài chính eo hẹp, căng thẳng sắc tộc kéo dài, chính biến của lực lượng cảnh sát (tháng 2/2003), đặc biệt là những cuộc biểu tình liên tiếp chống chính phủ (tháng 10/2003) đã buộc Tổng thống Lô-xa-đa phải từ chức (17/10/2003) và chuyển giao quyền lực cho Phó Tổng thống Các-lốt Mê-xa (Carlos Mesa). Chính phủ của ông Mê-xa tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức, nhất là tình trạng xã hội bị chia rẽ sâu sắc, sự chống đối của các nhóm cực đoan và tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng.
Ngày 18/12/2005, ứng cử viên Phong trào tiến lên Chủ nghĩa xã hội (MAS) Hoan Ê-vô-Mô-ra-lết Ay-ma, có tư tưởng dân tộc, cánh tả và chống đế quốc, đã trúng cử Tổng thống với 54,8% số phiếu bầu, trở thành Tổng thống gốc thổ dân đầu tiên ở Bô-li-vi-a với các cam kết quốc hữu hóa các xí nghiệp năng lượng, sửa đổi Hiến pháp, cải cách ruộng đất, phi hình sự hóa việc tiêu thụ lá cây cô-ca, bài trừ tham nhũng, thúc đẩy liên kết khu vực Mỹ Latinh chống lại sức ép của Mỹ và tư bản nước ngoài... khẳng định đi theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp mới (2/2009) đã mở đường cho việc bầu cử Tổng thống được tiến hành sớm hơn một năm. Tổng thống E. Mô-ra-lết đã tái đắc cử hai lần liên tiếp (ngày 22/1/2010 và 12/10/2014) và trở thành một trong những Tổng thống tại vị lâu nhất tại khu vực.
III. THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ:
Bô-li-vi-a theo chế độ Cộng hoà. Tổng thống và Phó Tổng thống được bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm, tối đa hai nhiệm kỳ liên tiếp. Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia và đứng đầu Chính phủ. Tổng thống chỉ định các thành viên Nội các.
- Quốc hội gồm 2 viện: Thượng viện có 36 thành viên và Hạ viện có 130 thành viên. Nhiệm kỳ của các Thượng, Hạ nghị sĩ là 5 năm. Phó Tổng thống đồng thời là Chủ tịch Quốc hội.
- Toà án tối cao: Các Thẩm phán được bầu cử trực tiếp trên cơ sở đề cử của Quốc hội với nhiệm kỳ 6 năm.
- Các đảng phái chính trong Quốc hội hiện nay gồm: Đảng Phong trào tiến lên Chủ nghĩa xã hội (MAS) chiếm đa số với 26/36 ghế ở Thượng viện, 89/130 ghế ở Hạ viện; Đảng Kế hoạch Tiến bộ vì Bô-li-vi-a – Hội tụ quốc gia (PPB-CN), Đảng Quốc gia Thống nhất, Đảng Liên minh Xã hội.
IV. KINH TẾ:
Bô-li-vi-a giàu tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, thiếc, kẽm, vôn-phram, bạc, đồng, chì, gỗ, tung-xten, sắt, vàng, thủy điện (trữ lượng khí đốt tự nhiên lớn thứ hai ở Nam Mỹ với sản lượng 35 triệu m3/ngày). Kinh tế hiện phụ thuộc chủ yếu vào khai thác khí đốt và khoáng sản. Tỉ trọng các ngành trong GDP (2011): dịch vụ chiếm 50%, công nghiệp 40%, nông nghiệp 10%. Nông sản chính: đậu tương (thứ 8 trên thế giới, thứ 4 tại khu vực Nam Mỹ), bông, ngô, mía đường, gạo, khoai tây, cà phê, quả hạch Bra-xin, gỗ, lá coca (thứ 3 trên thế giới, sau Cô-lôm-bi-a và Pê-ru). Bô-li-vi-a có nhu cầu lớn về đầu tư nước ngoài cho khai thác dầu khí và khoáng sản.
Kể từ khi cầm quyền (22/1/2006), Tổng thống Ê-vô Mô-ra-lết quốc hữu hóa ngành dầu khí, cải cách ruộng đất; phản đối thành lập Khu vực tự do thương mại Châu Mỹ (ALCA) do Mỹ khởi xướng…Năm 2009, trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, Bô-li-vi-a vẫn đạt mức tăng trưởng cao nhất Mỹ Latinh (4%). Sản phẩm xuất khẩu chính là khí đốt tự nhiên, thiếc, kẽm, vàng, bạc, cà phê, đậu tương và sản phẩm phụ, đường, gỗ; bạn hàng chính của Bô-li-vi-a chủ yếu là khu vực có thỏa thuận thương mại ưu đãi song phương như Cộng đồng An-đết (CAN), Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), khối Liên minh Bô-li-va cho Châu Mỹ (ALBA), Mỹ, Hàn Quốc, và Nhật Bản. Hàng nhập khẩu chính: máy móc và phương tiện vận tải, hàng tiêu dùng, nguyên liệu và bán thành phẩm, hoá chất, các chế phẩm từ dầu mỏ, nhựa, giấy, máy bay, ô tô, thực phẩm chế biến sẵn; bạn hàng chính: Chi-lê, Bra-xin, Ác-hen-ti-na, Mỹ, Pê-ru, Trung Quốc.
Bô-li-vi-a là thành viên các thể chế hợp tác kinh tế, thương mại quốc tế: Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Tổ chức Nông Lương (FAO), Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển liên Mỹ (IADB), Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA), Cộng đồng các Quốc gia An-đết (CAN) và thành viên liên kết của nhóm Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR).
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI:
Chính phủ của Tổng thống Ê-vô Mô-ra-lết triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, chống đế quốc chủ nghĩa, tăng cường quan hệ với các chính thể thiên tả, tiến bộ, tư tưởng theo xã hội chủ nghĩa. Với khu vực, Bô-li-vi-a tăng cường quan hệ và hội nhập sâu rộng trong khuôn khổ Liên minh Bô-li-vi-a vì các dân tộc châu Mỹ (ALBA); thúc đẩy hình thành không gian hợp tác giữa Cộng đồng các Quốc gia An-đết và khối Thị trường chung Nam Mỹ MERCOSUR; nỗ lực tham gia vào dự án hợp tác năng lượng Nam Mỹ trong khuôn khổ Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ (UNASUR).
Bô-li-vi-a là thành viên của Liên hợp quốc, Cộng đồng Caribe (CARICOM), Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ (UNASUR), Tổ chức các Quốc gia Châu Mỹ (OEA), Nhóm Ri-ô, Phong trào Không Liên kết, Liên minh Nghị viện Thế giới (IPU)…
VI. QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM:
1. Chính trị-Ngoại giao:
Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ ngày 10/02/1987. Hiện Đại sứ quán Việt Nam tại Bra-xin kiêm nhiệm Bô-li-vi-a và Đại sứ quán Bô-li-vi-a tại Trung Quốc kiêm nhiệm Việt Nam. Về trao đổi Đoàn, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (12/2013) và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan (5/2015) thăm Bô-li-vi-a; phía Bô-li-vi-a có Thứ trưởng Ngoại giao Pa-blô Gu-xman (10/2008) và Phó Tổng thống An-va-rô Gác-xi-a Li-nê-ra (9/2012).
Lãnh đạo Bô-li-vi-a bày tỏ khâm phục những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, đề nghị ta chia sẻ kinh nghiệm quản lý đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN và khẳng định mong muốn thúc đẩy quan hệ giữa hai nước thông qua việc trao đổi đoàn các cấp, ký kết các văn kiện hợp tác trên lĩnh vực kinh tế-thương mại, nhất là về dầu khí, nông nghiệp, xây dựng...
Hai bên đã ký Hiệp định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao và công vụ, MOU về việc thiết lập cơ chế tham khảo chính trị giữa hai Bộ Ngoại giao (9/2012), Bản Ghi nhớ về hợp tác giữa PetroVietnam và Công ty Dầu khí quốc gia Bô-li-vi-a (2009), Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (12/2013). Hai bên đang xúc tiến trao đổi về Hiệp định tránh đánh thuế song trùng, Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư, MOU hợp tác về năng lượng.
2. Kinh tế:
Trao đổi thương mại song phương còn rất khiêm tốn nhưng có đà gia tăng, từ 2,3 triệu USD năm 2007 lên hơn 50 triệu USD năm 2018, tuy nhiên vẫn chỉ chiếm dưới 1% trong tổng kim ngạch ngoại thương của Bolivia. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là giày dép, sản phẩm dệt may, cao su, linh kiện, phụ tùng xe máy, và nhập khẩu gỗ, nguyên liệu dệt may và da giầy. Tuy nhiên, còn nhiều lĩnh vực có tiềm năng hợp tác cùng có lợi như khai thác và chế biến khoáng sản, khí đốt tự nhiên, nông nghiệp, xây dựng...
3. Hợp tác đa phương:
Back Top page Print Email |