Thông Tin Cơ Bản Về Căm-pu-chia Và Quan Hệ Với Việt Nam
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ VƯƠNG QUỐC CĂM-PU-CHIA
VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM - CĂM-PU-CHIA
(The Kingdom of Cambodia)
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊA LÝ, DIỆN TÍCH VÀ DÂN SỐ:
- Tên nước : Vương quốc Campuchia
- Diện tích : 181.035 km2.
- Thủ đô : Nông-phênh (Phnom Penh).
- Các tỉnh, thành phố lớn: Phnom Penh, Battambang, Kompong Cham, Sihanoukville, Seam Reap.
- Vị trí địa lý: Campuchia nằm ở Tây Nam bán đảo Đông Dương, Tây và Tây Bắc giáp Thái Lan (2.100 km), Đông giáp Việt Nam (1.137km), Đông Bắc giáp Lào (492km), Nam giáp biển (400 km). Sông ngòi: tập trung trong 3 lưu vực chính (Tonlé Thom, Tonlé Sap và Vịnh Thái Lan). Phân bố địa hình: đồng bằng chiếm 1/2 diện tích, còn lại là núi, đồi bao quanh đất nước.
- Dân tộc: Người Khmer chiếm 90% gồm nhiều loại như Khơ-me giữa (Khmer Kandal), Khơ-me Thượng (Khmer Loeur) và Khơ-me dưới (Khmer Krom). Các dân tộc thiểu số: người Mã Lai, người Chàm, người Lào, Miến Điện, Việt Nam, Thái Lan và Hoa (10%).
- Ngôn ngữ chính thức : Tiếng Khơ-me (95%). Mọi công dân Campuchia được gọi là người mang "quốc tịch Khơ-me".
- Tôn giáo : Đạo Phật (khoảng 90%) được coi là Quốc đạo.
- Dân số: 13.091.000 người (tính đến giữa năm 2004). Tỉ lệ tăng dân số: 2,24%/năm.
II- LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN:
1. Lịch sử hình thành: Vương quốc Khơme ra đời vào cuối thế kỷ thứ 9 trên lãnh thổ của Phù-nam và Chân-lạp trước đây. Kinh đô lúc đó là Angkor. Từ cuối thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 13, Vương quốc Khơme phát triển cực thịnh. Từ thế kỷ 13 đến nửa đầu thế kỷ 19, các cuộc nội chiến và chinh phục của ngoại bang đã làm cho Vương quốc Khơ-me suy yếu.
2. Tóm tắt một số giai đoạn lịch sử quan trọng qua các thời đại:
- Những năm 60 của thế kỷ 19 thực dân Pháp vào Đông Dương. Năm 1863, Pháp buộc Vua Norodom phải ký Hiệp ước đặt Campuchia dưới sự bảo hộ của Pháp và đến 1884 Campuchia hoàn toàn trở thành thuộc địa của Pháp.
- Năm 1941, Norodom Sihanouk sau khi lên ngôi lần thứ nhất đã vận động cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập cho Campuchia. Ngày 09/11/1953, Pháp tuyên bố trao trả độc lập cho Campuchia. Tháng 4/1955, Sihanouk thoái vị nhường ngôi Vua cho cha là Norodom Suramarith để thành lập Cộng đồng xã hội bình dân. Trong cuộc tuyển cử 9/1955, Cộng đồng xã hội bình dân đã giành được thắng lợi lớn, Sihanouk trở thành Thủ tướng, tập trung mọi quyền lực vào tay mình. Năm 1960, Quốc vương Norodom Suramarith qua đời, Sihanouk được Quốc hội bầu làm Quốc trưởng Campuchia.
- Ngày 18/3/1970, Lon Nol-Siric Matak, được sự hậu thuẫn của Mỹ đảo chính Sihanouk, thành lập "Cộng hoà Khơ-me" (10/1970). Sihanouk và Hoàng tộc sang cư trú tại Trung Quốc và sau đó thành lập Mặt trận Đoàn kết dân tộc Campuchia (FUNK) và Chính phủ Đoàn kết dân tộc Vương quốc Campuchia (GRUNK) đặt trụ sở tại Bắc Kinh.
- Ngày 17/4/1975, Pol Pot lật đổ chế độ Cộng hoà của Lon Nol, thành lập nước "Campuchia dân chủ", thực hiện chế độ diệt chủng tàn khốc nhất trong lịch sử của Campuchia.
- Ngày 2/12/1978, Mặt trận giải phóng dân tộc Campuchia ra đời do ông Heng Samrin làm Chủ tịch. Ngày 07/1/1979, với sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, nhân dân Campuchia đã đứng lên lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot-Iêng Xary, thành lập nước "Cộng hoà Nhân dân Campuchia", năm 1989 đổi thành "Nhà nước Campuchia" (SOC).
- Ngày 23/10/1991, Hiệp định hoà bình Campuchia được ký kết giữa 19 nước và 4 phái Campuchia tại thủ đô Paris (Pháp). Ngày 23-25/5/1993, Tổng tuyển cử lần thứ nhất ở Campuchia do Cơ quan quyền lực lâm thời của Liên hợp quốc (UNTAC) tổ chức. Kết quả FUN giành 58 ghế, CPP: 51 ghế, BLDP: 10 ghế và Molinaka: 1 ghế. Ngày 24/9/1993, Quốc hội mới và Chính phủ Liên hiệp CPP-FUNCINPEC (FUN) nhiệm kỳ I được thành lập, tên nước đổi thành Vương quốc Campuchia theo chế độ Quân chủ lập hiến, thực hiện chế độ đa đảng và nền kinh tế thị trường. N. Sihanouk lên ngôi Vua lần thứ hai.
- Ngày 26/7/1998, Tổng tuyển cử lần thứ hai. CPP được 64 ghế, FUN: được 43 ghế, đảng đối lập Sam Rainsy (SRP) được 15 ghế. Quốc hội Campuchia do Hoàng thân Ranariddh làm Chủ tịch. Chính phủ Hoàng gia nhiệm kỳ II tiếp tục là Chính phủ liên hiệp giữa CPP và FUNCINPEC.
- Ngày 27/7/2003, Tổng tuyển cử lần thứ ba bầu 123 ghế trong Quốc hội, 3 đảng lớn giành thắng lợi là CPP: 73 ghế, FUN: 26 ghế, SRP: 24 ghế. Ngày 15/7/2004, Chính phủ liên hiệp CPP-FUNCINPEC nhiệm kỳ III được thành lập, Xăm-đéc Hun Sen tiếp tục giữ chức Thủ tướng, Hoàng thân Ranariddh giữ chức Chủ tịch Quốc hội. Cơ cấu quyền lực được phân chia theo công thức 60-40 (CPP: 60; FUN: 40).
- Ngày 06/10/2004, Quốc vương Norodom Sihanouk tuyên bố thoái vị; ngày 08/10/2004, Quốc hội Campuchia bỏ phiếu thông qua Luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Ngôi Vua; ngày 11/10/2004, Thượng viện Campuchia thông qua và Quyền Quốc trưởng Chia Sim ký ban hành Luật này; ngày 14/10/2004, Hội đồng Ngôi Vua bầu Hoàng tử Norodom Sihamoni làm Quốc vương mới. Ngày 29/10/2004 Quốc vương N. Sihamoni chính thức đăng quang.
III. THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ :
1- Thể chế nhà nước: Theo Hiến pháp năm 1993 qui định Campuchia là quốc gia Quân chủ lập hiến. Hệ thống quyền lực được phân định rõ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp gồm: Vua, Hội đồng ngôi Vua, Thượng viện, Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Hội đồng Hiến pháp và các cơ quan hành chính các cấp.
2- Hành pháp: Đứng đầu nhà nước: Quốc vương Norodom Sihamoni, lên ngôi ngày 29/10/2004. Đứng đầu Chính phủ hiện nay gồm 01 Thủ tướng và 06 Phó Thủ tướng. Nội các: Hội đồng Bộ trưởng do Vua ký sắc lệnh bổ nhiệm.
3- Lập pháp: Lưỡng viện.
- Quốc hội : Chủ tịch Quốc hội Xăm-đéc Heng Xom-rin (CPP) sau khi N. Ranarith (FUN) từ chức; có 123 ghế, bầu đại biểu theo chế độ phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Campuchia đã tổ chức bầu cử Quốc hội 3 lần (1993, 1998, 2003), bầu cử Quốc hội khóa 4 diễn ra vào năm 2008.
- Thượng viện : Chủ tịch: Xăm-đéc Chea Sim (CPP); nhiệm kỳ 5 năm; Thượng viện có 61 ghế, trong đó 02 ghế do Vua bổ nhiệm, 02 ghế do Quốc Hội chỉ định. Thượng viện nhiệm kỳ I thành lập tháng 3/1999 không qua bầu cử, các đảng có chân trong Quốc hội bổ nhiệm thành viên theo tỉ lệ số ghế có trong Quốc hội. Bầu cử Thượng viện nhiệm kỳ II diễn ra ngày 22/1/2006 thông qua bỏ phiếu kín và phi phổ thông, kết quả CPP giành 45 ghế, FUNCINPEC: 10 ghế và SRP: 02 ghế.
- Tư pháp: Hội đồng Thẩm phán tối cao (được Hiến pháp quy định, thành lập 12/1997); Toà án Tối cao và các Toà án địa phương.
- Các đảng chính trị: Hiện nay, ở Campuchia có 3 Đảng lớn là: Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), Đảng Mặt trận đoàn kết dân tộc vì một nước Campuchia độc lập, trung lập, hoà bình và thống nhất (FUNCINPEC) là hai đảng chính đang cầm quyền. Đảng Sam Rainsy (SRP) là đảng đối lập chính và khoảng 58 đảng phái khác.
IV. KINH TẾ:
1- Campuchia là nước nông nghiệp (70% dân số làm nghề nông), phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên; có nhiều tài nguyên quý hiếm như đá quý, hồng ngọc, vàng, gỗ. Angkor Wat được xếp là một trong số các kì quan nổi tiếng của thế giới. Nền công nghiệp của Campuchia còn yếu kém. Năm 2005, Campuchia đã sản xuất được gần 6 triệu tấn thóc (tăng 43% so với năm 2004) đạt sản lượng cao nhất trong 27 năm qua. Mức tăng trưởng kinh tế năm 2005 đạt 6,3% (so với năm 2004 là 6%). Bình quân đầu người 320 USD/năm (năm 2004). Tại Hội nghị các nhà tài trợ cho Campuchia (CG) lần thứ 8 (03/3/2006), các nước đã cam kết tài trợ cho Campuchia khoảng 1,4 tỉ USD cho giai đoạn 2006-2008, riêng năm 2006 là 623 triệu USD.
2- Thị trường xuất khẩu chính của Campuchia là Mỹ, EU, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam. Kinh tế chủ yếu dựa vào 3 ngành chính là: xuất khẩu dệt may, du lịch và xây dựng. Tuy nhiên, kinh tế Campuchia còn lạc hậu và gặp nhiều khó khăn, 50% ngân sách Chính phủ dựa vào viện trợ và cho vay của nước ngoài.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI :
1- Theo quy định của Hiến pháp, Campuchia thực hiện chính sách trung lập, không liên kết vĩnh viễn, không xâm lược hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Chính sách phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, khách du lịch, tích cực hội nhập quốc tế và khu vực đã đạt nhiều thành tựu. Hiện Campuchia là thành viên thứ 10 của ASEAN (tháng 4/1999), thành viên chính thức thứ 148 của WTO (tháng 9/2003), gia nhập ASEM tại Hội nghị cấp cao ASEM 5 (tháng 10/2004) tại Hà Nội; và đang tích cực chuẩn bị để tham gia APEC trong thời gian sớm nhất. Campuchia cũng là thành viên tích cực trong hợp tác khu vực như: Uỷ hội Mekong quốc tế (MRC) ; Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia (CLV); Tiểu vùng sông Mê kông mở rộng (GMS); Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawadi-Chao Praya-Mekong (ACMECS); Hành lang Đông Tây (WEC)...
2- Campuchia cũng chú trọng quan hệ với các nước lớn, các nước tài trợ, các nước láng giềng; tăng cường quan hệ mọi mặt, nhất là kinh tế-thương mại với Trung Quốc; tiếp tục tranh thủ Mỹ; thoả thuận giải quyết xong vấn đề biên giới trên bộ trong năm 2006 với Thái Lan, xúc tiến giải quyết biên giới với Lào.
VI. QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM :
1- Về chính trị:
- Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 24/6/1967.
- Năm 1930, Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, sau một thời gian lãnh đạo đã tách ra thành 3 đảng độc lập (Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Đảng nhân dân cách mạng Khơ-me năm 1951, Đảng nhân dân cách mạng Lào năm 1955). Ta đưa quân lên Campuchia lần thứ nhất giúp cách mạng Campuchia tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Từ 1954-1970, chính quyền Sihanouk thực hiện chính sách hoà bình trung lập tích cực, từng bước có quan hệ tốt với các lực lượng cách mạng Việt Nam, ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam nhằm thống nhất đất nước.
- Từ tháng 3/1970 đến 4/1975, các lực lượng cách mạng 3 nước Đông Dương thành lập Mặt trận Đoàn kết Đông dương để hỗ trợ và giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chung chống Mỹ và tay sai. Quân tình nguyện Việt Nam lần thứ hai vào Campuchia.
- Từ 1979-1989, Việt Nam lần thứ ba đưa quân vào Campuchia giúp lực lượng cách mạng Campuchia lật đổ và ngăn chặn chế độ diệt chủng Pol Pot, giúp Campuchia hồi sinh. Tháng 10/1991, Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết. Campuchia tiến hành Tổng tuyển cử tháng 5/1993 do LHQ bảo trợ và Chính phủ Hoàng gia Campuchia được thành lập.
- Từ 1993 đến nay, quan hệ Việt Nam-Campuchia không ngừng được củng cố và phát triển về mọi mặt. Hai bên đã trao đổi nhiều chuyến thăm cấp cao, đặc biệt là chuyến thăm chính thức Campuchia của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tháng 3/2005, hai bên đã nhất trí phương châm phát triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới theo hướng "láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài". Gần đây Lãnh đạo hai nước đã trao đổi một số chuyến thăm chính thức như: chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Hun Sen tháng 10/2005, hai nước đã ký Hiệp định bổ sung Hiệp định hoạch định biên giới Quốc gia năm 1985 và chuyến thăm chính thức Campuchia của Thủ tướng Phan Văn Khải (6-7/3/2006), hai nước đã ký thêm một số thỏa thuận hợp tác mới, góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước lên một tầm cao mới về chất, chuyến thăm chính thức nước ta của Quốc vương N. Sihamoni (16-18/3/2006), chuyến thăm chính thức nước ta của Chủ tịch Quốc hội Heng Samrin (6-11/7/2006) và chuyến thăm chính thức Campuchia của Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng (21-23/9/2006) thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai nước. Các Bộ, ngành, địa phương hai bên cũng xúc tiến việc trao đổi đoàn ở các cấp.
2- Về hợp tác an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, khoa học-kỹ thuật, văn hoá giữa hai nước:
a. Hợp tác trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng: được hai bên chú trọng đẩy mạnh. Các ngành quốc phòng, an ninh hai nước tiếp tục thúc đẩy hợp tác theo các thoả thuận đã ký, phối hợp giải quyết tốt những vấn đề phát sinh trên tuyến biên giới trên bộ và trên biển. Hội nghị hợp tác phát triển các tỉnh biên giới Việt Nam – Campuchia lần thứ nhất (tháng 9/2004) và Hội nghị lần thứ hai (9/2005) đã đánh dấu một cơ chế hợp tác mới giữa các tỉnh giáp biên nhằm bảo đảm an ninh trên biên giới hai nước.
b. Hợp tác trên lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hoá: hai nước đã thành lập Uỷ ban hỗn hợp về kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật tháng 4/1994, đến nay đã tiến hành được 7 kỳ họp. Tại mỗi kỳ họp của Uỷ ban hỗn hợp, hai nước kiểm điểm việc thực hiện các kế hoạch hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, thương mại, quân sự, an ninh..., đồng thời đưa ra các kế hoạch mới cho những năm tiếp theo. Trong những năm qua, quan hệ hai nước đã có những bước phát triển tích cực và có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt kim ngạch buôn bán hai chiều giữa hai nước không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước trung bình 40% (năm 2000: 180 triệu USD, năm 2001: 185 triệu USD, 2002: 240 triệu USD, năm 2003: 350 triệu USD, năm 2004: 515 triệu USD; năm 2005: 692 triệu). Hai nước cũng thống nhất nhiều biện pháp thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại và đặt mục tiêu phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều năm 2006 đạt 1 tỷ USD.
Hai nước cũng quan tâm thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng, thế mạnh như giáo dục, đào tạo, năng lượng-điện, y tế, giao thông vận tải.v.v...
Hợp tác giữa các địa phương hai nước, nhất là các tỉnh giáp biên và thành phố có quan hệ kết nghĩa cũng được đẩy mạnh, góp phần củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng truyền thống và hợp tác toàn diện giữa hai nước.
Bên cạnh quan hệ hợp tác song phương, hai bên đẩy mạnh hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế như hợp tác trong Ủy hội sông Mê kông (MRC), Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), Chương trình phát triển các vùng nghèo liên quốc gia dọc Hành lang Đông-Tây (WEC), Chiến lược hợp tác kinh tế ba dòng sông Ayeyawady-Chao Praya-Mekong (ACMECS), Tứ giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia-Mi-an-ma (CLMV), Tam giác phát triển ba nước Việt Nam-Lào-Campuchia./.
Tháng 9 năm 2006
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail |