THÔNG TIN CƠ
BẢN VỀ VƯƠNG QUỐC THỤY ĐIỂN
-----
I. THÔNG TIN
CƠ BẢN
- Thủ đô: Xtốc-khôm
(Stockholm) khoảng trên 1,5 triệu dân
- Ngày Quốc khánh: 6/6 (Ngày lễ cờ)
- Vị trí địa lý: Nằm trên bán đảo Xờ-can-đi-na-vi, Tây và Bắc giáp Na
Uy, Đông giáp Phần Lan, Nam giáp biển Ban-tích và Đan Mạch.
- Diện tích: 449.964 km2.
- Khí hậu: Tuy
nằm ở gần Bắc Cực, nhưng do ảnh hưởng của hải lưu nóng Gulf Stream nên khí
hậu tương đối ôn hòa. Mùa hè nhiệt độ trung bình từ 150C - 170C.
Mùa Đông ở miền Bắc trung bình -140C, miền Nam -10C.
- Dân số: Gần
9,9 triệu người, trong đó 1,2 triệu là người nhập cư nước ngoài (01/2017).
- Dân tộc: Người
Thụy Điển chiếm 81,9%, người Phần Lan khoảng 5%, các nhóm dân tộc khác là
13%, trong đó người Láp (còn gọi là người Sam) có khoảng 150.000 người.
- Ngôn ngữ: Tiếng Thụy Điển. Ngoại ngữ thông dụng nhất là tiếng Anh.
- Tôn giáo: Đạo Tin lành dòng Lu-thơ chiếm 85% dân số, còn lại là các tôn giáo
khác.
|
Lãnh đạo chủ
chốt:
+ Nhà Vua: Carl
XVI Gustaf (Can Gút-xtáp 16, lên ngôi ngày 15/9/1973).
+ Thủ tướng: Ông Stefan Löfven (Xtê-phan Lếp-ven), Chủ tịch Đảng Dân
chủ Xã hội, được bầu ngày 2/10/2014.
+ Chủ tịch Quốc hội: Ông Urban Ahlin (U-ban A-lin), Đảng Dân chủ Xã
hội, được bầu ngày 29/9/2014.
+ Bộ trưởng Ngoại giao: Bà Margot Wallström (Ma-gốt Van-xtờ-rêm),
Đảng Dân chủ Xã hội, được bổ nhiệm ngày 3/10/2014.
- Số liệu kinh tế:
+ Đơn vị tiền tệ: Đồng Cua-ron
(SEK). Tỉ giá 1 USD = 9,02 SEK (tính đến ngày 06/01/2017)
+ GDP năm 2016 tăng 3,6 % so với năm 2015 và đạt 505 tỷ USD; lạm phát 0,8%;
thất nghiệp 6,9%.
II. KHÁI
QUÁT LỊCH SỬ
800 – 1050
|
Thời kỳ Viking
|
1280
|
Hình thành Vương quốc
|
1397 – 1523
|
Liên hiệp Kalmar, Thụy Điển dưới quyền cai trị của
Đan Mạch
|
1523
|
Vua Gustaf Vasa lên ngôi, thực hiện chế độ quân chủ.
Thụy Điển trở thành quốc gia độc lập và bước vào thời kỳ phát triển hưng
thịnh.
|
1648
|
Mở đầu thời kỳ “Đế chế Thụy Điển”
|
1700 – 1721
|
Chiến tranh “Great Northern War”, Thụy Điển thua
trận và chấm dứt thời kỳ Đế chế
|
1803 – 1815
|
Thụy Điển tham gia các cuộc chiến tranh của Napoleon
|
1809
|
Nhượng lại Phần Lan cho Nga
|
1814
|
Na Uy sáp nhập vào Thụy Điển
|
1905
|
Na Uy tách khỏi Thụy Điển
|
1914
|
Thực hiện chính sách trung lập, không tham gia hai
cuộc chiến tranh thế giới
|
19/11/1946
|
Gia nhập LHQ
|
1/1/1995
|
Gia nhập EU
|
III. THỂ CHẾ
NHÀ NƯỚC, ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ
1. Thể chế
nhà nước:
a/ Thể chế nhà nước
Thụy Điển theo chế độ quân chủ lập hiến với hình thức dân
chủ nghị viện. Vua là nguyên thủ quốc gia nhưng không tham gia chính trị và
không có quyền lực chính trị mà chỉ tham gia các hoạt động có tính chất lễ nghi.
Quyền lực chính trị chủ yếu thuộc Quốc hội và Chính phủ.
b/ Quốc hội
Quốc hội là cơ quan lập pháp cao nhất. Hiến pháp đầu
tiên của Thụy Điển được thông qua vào năm 1809. Năm 1971, Thụy Điển thực hiện
chế độ Quốc hội một viện, bỏ Thượng viện, chỉ còn Hạ viện hay Quốc hội
(Riksdag) với 349 ghế, nhiệm kỳ 4 năm, được bầu bằng phổ thông đầu phiếu (trong
đó 310 ghế được bầu theo danh sách đảng và 39 ghế đại cử tri được bầu theo danh
sách đảng). Một đảng phải giành được tối thiểu 4% số phiếu bầu trong cả nước
mới có đại diện trong Quốc hội.
Quốc hội bỏ phiếu thông qua thành phần Chính phủ mới
và có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm Thủ tướng/Bộ trưởng nếu có 1/3 số nghị sỹ yêu
cầu.
c/ Chính phủ
Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Thủ tướng là người
được Chủ tịch Quốc hội đề nghị đứng ra thành lập Chính phủ mới. Thủ tướng được
chỉ định tiến hành bổ nhiệm các thành viên trong chính phủ. Sau đó Quốc hội
thông qua thành phần Chính phủ mới theo nguyên tắc đa số phiếu tán thành.
Chính phủ hoạt động với nhiệm kỳ 4 năm hoặc khi Thủ
tướng đương nhiệm từ chức do mất tín nhiệm hoặc vì lý do cá nhân. Chính phủ có
quyền đề nghị giải tán Quốc hội và tiến hành bầu cử trước thời hạn. Song Quốc
hội được bầu lại chỉ tồn tại đến hết thời gian còn lại của nhiệm kỳ.
d/ Tòa án:
Hệ thống tòa án hoạt động độc lập với cơ quan lập pháp
và hành pháp, được chia làm 3 cấp: trung ương, tỉnh và quận. Tòa án tối cao gồm
16 thẩm phán (bao gồm cả Chánh án); Tòa Hành chính tối cao gồm 18 thẩm phán
(bao gồm cả Chánh án); Các thẩm phán do Hội đồng Thẩm phán (gồm 9 thành viên là
các thẩm phán cao cấp, công tố cao cấp và các nghị sỹ Quốc hội) đề cử, sau đó
được Chính phủ bổ nhiệm.
2. Các đảng phái chính trị hiện nay:
2.1 Liên minh cầm quyền
- Đảng DCXH: (113 ghế) thành lập năm 1889, tiền thân là đại diện
những người lao động, là đảng chính trị lớn nhất ở Thụy Điển, nắm quyền lãnh
đạo đất nước trong một thời gian dài và có những đóng góp to lớn trong việc xây
dựng thành công mô hình nhà nước phúc lợi.
Sau thất bại bầu cử (2006 và 2010), đảng DCXH có nhiều
nỗ lực đổi mới đảng về tổ chức, đường lối và nhân sự nhằm giành lại vai trò
lãnh đạo và đã giành lại được quyền lãnh đạo Thụy Điển trong cuộc bầu cử 2014. Chủ
tịch đảng hiện nay là ông Stefan Lofven, nguyên là lãnh đạo công đoàn (từ
2/2012).
- Đảng Môi
trường (Đảng Xanh): (25 ghế) thành
lập năm 1981 từ phong trào phản đối năng lượng hạt nhân, bảo vệ môi trường, bảo
vệ thiên nhiên; hiện là đảng lớn thứ 3 trong Quốc hội. Đảng Xanh ủng hộ việc
giảm dần sử dụng năng lượng hạt nhân, tăng thuế môi trường, đánh thuế cao các
sản phẩm không thân thiện với môi trường, ủng hộ hợp tác ứng phó với tác động
của biến đổi khí hậu.
2.2 Các đảng
đối lập
- Đảng Cánh
tả: (21 ghế) thành lập năm 1917, do
nhóm cánh tả của đảng DCXH tách ra. Năm 1921, đảng đổi tên là đảng Cộng sản
Thụy Điển. Năm 1967 đổi thành đảng Cộng sản Cánh tả và năm 1990 đổi thành đảng
Cánh tả. Khi mới thành lập, đảng lấy CN Mác-Lê nin làm nền tảng tư tưởng, dần
dần theo con đường cải lương, chủ nghĩa dân túy. Đảng Cánh tả phản đối tư nhân
hóa, chống việc Thụy Điển gia nhập Liên minh tiền tệ đồng euro.
- Đảng Bảo
thủ (Ôn hòa): (84 ghế) thành lập năm
1904, đại diện cho quyền lợi của tầng lớp đại tư bản công nghiệp và Giáo hội
theo tư tưởng cực hữu, chống cộng, ủng hộ tư nhân hóa, thị trường tự do, giảm
thuế, tự do cá nhân, hôn nhân đồng tính.
- Đảng Tự
do: (19 ghế) thành lập năm 1902, đại
diện cho tầng lớp trí thức, viên chức theo khuynh hướng trung hữu, hiện là đảng
lớn thứ 4 trong Quốc hội. Đảng tự do ủng hộ người nhập cư, nới lỏng các chính
sách đối với người nhập cư vì lý do kinh tế, ủng hộ Thụy Điển gia nhập NATO.
- Đảng Trung
tâm: (22 ghế) thành lập năm 1913, đại
diện quyền lợi của tầng lớp tư bản trong nông nghiệp theo khuynh hướng trung
hữu. Những năm 1970 và đầu năm 1980 là đảng lớn nhất trong các đảng cánh hữu.
Đảng Trung tâm có quan điểm ủng hộ người nhập cư, chính sách viện trợ cho các
nước nghèo.
- Đảng Dân
chủ thiên chúa giáo: (17 ghế) thành
lập năm 1964, là đảng chính trị nhỏ đại diện quyền lợi cho những người theo đạo
Thiên chúa, bảo vệ các ý tưởng của tôn giáo, tự do, nhân quyền; ủng hộ chăm sóc
người già, giảm thuế, phản đối việc công nhận Palestine.
- Đảng những
người dân chủ Thụy Điển: (49 ghế)
thành lập năm 1988 đại diện cho tầng lớp theo chủ nghĩa dân tộc cực hữu, bài
ngoại; hội viên của đảng đa số là thanh niên, sinh viên có tư tưởng cực đoan
trong chính sách đối với người tị nạn, chống nhập cư, tham gia EU; bảo vệ các
giá trị truyền thống của xã hội Thụy Điển. Trong cuộc bầu cử năm 2010, lần đầu
tiên đảng này được tham gia Quốc hội. Trong cuộc bầu cử T9/2014, đảng đã được gấp đôi phiếu bầu
so với bầu cử năm 2010, trở thành đảng lớn thứ ba trên chính trường Thụy Điển.
Ngoài ra còn có một số đảng nhỏ khác như Đảng Cộng sản
theo đường lối Mác-xít và Đảng Cộng sản Thụy Điển.
IV. GIỚI
THIỆU VỀ KINH TẾ
Với nền kinh tế tri thức hướng tới công nghệ cao và
một hệ thống phúc lợi xã hội toàn diện, Thụy Điển là một trong các quốc gia có
mức sống cao nhất thế giới. Thụy Điển có ba nguồn tài nguyên chính là rừng,
quặng sắt và thủy điện.
+ Tăng trưởng GDP năm 2016 đạt 3,6% (năm 2015: 2,9%) theo IMF.
- Cơ cấu
kinh tế:
Dịch vụ (71,6% GDP)-Công nghiệp (26,7% GDP)- Nông
nghiệp (1,6% GDP).
- Các ngành
công nghiệp chính:
- Công nghiệp chế tạo; công nghiệp hóa chất; công nghiệp
khai khoáng và luyện kim; công nghiệp giấy và gỗ.
Thụy Điển là nước sớm và đi đầu trong nghiên cứu, ứng
dụng và sử dụng công nghệ xanh, công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng, năng
lượng tái sinh. Theo đánh giá của tổ chức Innovation Union Scoreboard năm
2013, Thụy Điển là nước đứng đầu về đổi mới sáng tạo. Thụy Điển cũng đứng hàng
thứ 2 thế giới về hệ thống giáo dục có chất lượng tốt. Trong năm 2014, Thụy
Điển là một trong ít nước khu vực châu Âu không bị suy thoái nặng do Chính phủ
đã thực hiện một số biện pháp hiệu quả, trong đó đã xử lý tốt việc điều chỉnh
tỷ giá đồn cu-ron với đồng USD, siết chặt quản lý nợ công, đổi mới doanh nghiệp
cổ phần Nhà nước, tăng cường thị trường lao động, đẩy mạnh xuất khẩu. Do kinh
tế Thụy Điển có độ mở lớn, xuất khẩu chiếm 55% GDP và hơn 50% thương mại là với
EU nên khi EU vẫn còn khó khăn, xuất khẩu của Thụy Điển, chủ yếu là máy móc,
thiết bị điện tử, viễn thông, giấy, dược phẩm, sản phẩm dầu, sắt, thép và thực
phẩm tiếp tục bị ảnh hưởng. Thụy Điển đang nỗ lực thúc đẩy hợp tác thương mại
tại các thị trường mới nổi (Trung Quốc, Brazin, Ấn Độ, Myanmar và Việt Nam), thúc
đẩy tiến trình đàm phán FTA với Mỹ và một số nước khác để bổ sung cho sự thiếu
hụt của thị trường nội địa và khu vực EU.
- Chính sách
hợp tác phát triển:
Mục tiêu chính của các dự án hợp tác phát triển của Thụy
Điển là nhằm cải thiện cuộc sống của con người, do vậy nhiều dự án hợp tác phát
triển tập trung vào xóa đói giảm nghèo và cải thiện dân chủ, nhân quyền trên
thế giới. Thụy Điển lựa chọn đối tác ưu tiên nhận viện trợ trên cơ sở đánh giá
những ưu tiên và chính sách của các nước. Tuy nhiên Chính phủ Thụy Điển nhấn
mạnh tự do, dân chủ, nhân quyền, minh bạch và chống tham nhũng là những tiêu
chí quan trọng để xác định cung cấp viện trợ phát triển. Ba nội dung được ưu
tiên trong hợp tác phát triển là: 1. Dân chủ và nhân quyền; 2. Bình đẳng giới
và vai trò của phụ nữ trong công cuộc phát triển; 3. Khí hậu và môi trường.
Hiện các đối tác ưu tiên trong hợp tác phát triển của Thụy Điển là khu vực Châu
Phi; châu Á có hai nước là Cam-pu-chia và Băng-la-dét.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Thụy Điển đã có những sửa đổi hiến pháp sâu rộng nhất
kể từ 1974 đến nay nhằm tạo thêm cơ sở pháp lý cho nhất thể hóa trong EU. Thực
tế, trong thời gian qua, Thụy Điển tiếp tục đẩy mạnh hợp tác khu vực Bắc Âu, ưu
tiên quan hệ hợp tác toàn diện với EU và Mỹ, tăng cường tham gia các hoạt động
quân sự theo hướng liên kết ngày càng mạnh hơn với NATO (dù chưa là thành viên
chính thức) và duy trì hỗ trợ các mặt cho chính quyền thân Mỹ và phương Tây ở
Irắc. Về chính sách an ninh, Thụy Điển tiếp tục nhấn mạnh sự chủ động và liên
kết với các nước Bắc Âu và EU. Thụy Điển sẽ không thụ động nếu một nước thành
viên EU hoặc Bắc Âu gặp thảm họa hoặc bị tấn công, đồng thời mong muốn các nước
này có hành động tương tự đối với Thụy Điển. Bên cạnh đó, Thụy Điển tiếp tục
quan tâm thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và hợp tác với các nước Ban-tích, đồng
thời có cố gắng điều chỉnh, cải thiện quan hệ với Nga. Ở Châu Á, Thụy Điển tập
trung tăng cường hợp tác với Trung Quốc và phần nào là Hàn Quốc và Nhật Bản.
Ngay sau khi nhậm chức, Thủ tướng
Stefan đã có bài phát biểu về chính sách đối ngoại của Chính phủ Thụy Điển với
nội dung đáng chú ý là Thụy Điển sẽ: (1) công nhận Nhà nước Palestin và cho
rằng xung đột giữa Israel và Palestin chỉ có thể được giải quyết bằng giải pháp
hai Nhà nước thông qua đàm phán, dựa trên nguyên tắc tuân thủ luật pháp quốc
tế; (2) không gia nhập Nato vì cho rằng chính sách không liên minh quân sự tiếp
tục có lợi cho Thụy Điển.
Ngày 30/10/2014, Thụy Điển đã chính
thức công nhận Nhà nước Palestin vì cho rằng Palestine hội tụ đủ các yếu tố của
một Nhà nước đó là có “lãnh thổ, người dân và Chính phủ”. Thụy Điển là nước Tây
Âu đầu tiên trong EU[1]
công nhận Nhà nước Palestin cùng 134 nước khác trên thế giới[2].
QUAN HỆ VIỆT NAM – THỤY ĐIỂN
I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ NGOẠI GIAO
Thụy Điển là nước phương
Tây đầu tiên công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam
(11/1/1969). Thụy Điển cũng là nước phương Tây có phong trào ủng hộ cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam mạnh nhất, sớm nhất (8/1966). Tháng 10/1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam Việt Nam lập Phòng Thông tin tại Stockholm.
Tháng 6/1970, Thụy Điển
lập Đại sứ quán tại Hà Nội[3]
và tháng 7/1970, ta lập Đại sứ quán tại Stockholm. Ngày 4/9/1982, Đảng ta chính
thức quyết định đặt quan hệ với Đảng XHDC Thụy Điển.
Tháng 11/2012, ĐSQ Thụy
Điển tại Hà Nội đề nghị được mở thêm Văn phòng Thương mại trực thuộc Cơ quan Xúc
tiến thương mại – đầu tư Thụy Điển “Business Sweden” nhằm thúc đẩy quan hệ thương
mại và đầu tư giữa hai nước. Tháng 9/2013, Văn phòng Thương mại chính thức đi
vào hoạt động.
Ngày 18-19/3/2014, Thụy
Điển lần đầu tiên tổ chức Hội nghị các Đại sứ Thụy Điển tại Châu Á tại Hà Nội
do Thứ trưởng Ngoại giao Frank Belfrage chủ trì. Đây là một sự kiện quan trọng
của Ngành Ngoại giao Thụy Điển diễn ra vào đúng thời điểm hai nước kỷ niệm 45
năm thiết lập QHNG.
Trao đổi các đoàn cấp cao giữa 2 bên:
+ Lãnh đạo cấp cao Thụy Điển thăm Việt Nam:
Thủ tướng Carl Bildt
(1994); Chủ tịch Quốc hội Birgiha Dahl (1995); Nhà Vua Thụy Điển Carl XVI
Gusstaf và Hoàng hậu (2004); Thủ tướng Thụy Điển Goran Persson và Ngoại trưởng
Laila Freivals dự Hội nghị thượng đỉnh ASEM 5 tại Hà Nội (2004); Bộ trưởng
Ngoại giao Thụy Điển Carl Bildt dự Hội nghị FMM 9 (2009); Bộ trưởng phụ trách
người già và trẻ em Maria Larsson (10/2012); Bộ trưởng Tư pháp Beatrice Ask sang
ký Hiệp định phòng chống tội phạm có tổ chức (2/2013); Chủ tịch Quốc hội Urban
Ahlin thăm chính thức (4/2015); Bộ trưởng Thương mại và các vấn đề EU (10/2016).
+ Lãnh đạo cấp cao Việt Nam thăm Thụy Điển: Thủ tướng Phạm Văn Đồng (1974), Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (1993), Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1995), Tổng Bí thư Lê
Khả Phiêu (1999), Thủ tướng Phan Văn
Khải (1999), Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (2002), Phó Thủ tướng Thường
trực Nguyễn Sinh Hùng (2008), Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Kiên (4/2010), Trưởng
ban đối ngoại Hoàng Bình Quân (9/2012), Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu
(12/2013), Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (4/2014); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim
Ngân (4/2017).
Thụy Điển là nước phương Tây đi đầu trong việc hỗ trợ Việt Nam thực hiện
công cuộc đổi mới ngay từ những năm đầu tiên trong các lĩnh vực cải cách kinh
tế; tài chính; ngân hàng; quản lý kinh tế; hành chính; luật pháp,… và tích cực
hỗ trợ Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế
(IMF, WB...). Tháng 01/2014, Quốc hội Thụy Điển đã phê chuẩn Hiệp định Đối tác và Hợp tác
toàn diện Việt Nam – EU (PCA).
II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ
Thương mại:
Cùng với sự phát triển quan hệ hợp tác kinh tế, quan
hệ thương mại hai nước cũng ngày càng tăng lên. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa 2
nước trong những năm gần đây như sau:
(đơn vị: triệu
USD)
Năm
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
|
2016
|
9/2017
|
XK
|
673,8
|
907,13
|
961,89
|
938,0
|
914,78
|
744,47
|
NK
|
241,2
|
226,91
|
257,14
|
240,0
|
290,48
|
267,61
|
Tổng
|
915,0
|
1134,04
|
1219,03
|
1178,0
|
1205,26
|
1,012,08
|
(Nguồn: Tổng
Cục Hải quan Việt Nam)
Các sản phẩm xuất
khẩu chính của Thụy Điển sang Việt Nam là máy móc và phụ tùng cho ngành công
nghiệp và viễn thông. Các sản phẩm nhập khẩu chính của Thụy Điển từ Việt Nam là
nông sản, giày dép, dệt may, đồ gỗ, điện thoại các loại và linh kiện.
Đầu tư:
Đầu tư Thụy Điển vào Việt
Nam tăng trưởng mạnh thời gian qua, với 54 dự án có tổng số vốn đăng ký đạt 100,73
triệu USD (8/2017), đứng thứ 42/116 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt
Nam. Tuy nhiên, con số này vẫn còn khiêm tốn so với quy mô kinh tế và tiềm lực
của Thụy Điển. Vốn trung bình một dự án khoảng 1,78 triệu USD, thấp hơn nhiều
so với các nước lớn như Mỹ (15,8 triệu USD). Thụy Điển quan tâm tới lĩnh vực
dịch vụ với 1 dự án, có vốn đăng ký là 40 triệu USD (chiếm 60% tổng vốn đầu tư),
tiếp đến là công nghiệp chế biến, chế tạo với 16 dự án, tổng vốn 18,85 triệu
USD. Số còn lại là các dự án trong các lĩnh vực khác nhưng không có dự án nào
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thụy Điển đầu tư chủ yếu
theo hình thức liên doanh (7 dự án với tổng vốn đầu tư 44,66 triệu USD) và 100%
vốn nước ngoài (28 dự án với tổng vốn đầu tư hơn 21 triệu USD). Các dự án của
Thụy Điển có mặt tại 7 tỉnh thành là Hà Nội, Bình Dương, T.P Hồ Chí Minh, Long An,
Vĩnh Phúc, Đà Nẵng và Hưng Yên. Nhiều tập đoàn kinh tế lớn của Thụy Điển sớm có
mặt tại Việt Nam như Ericsson, ABB, IKEA, Electrolux… Hãng sản xuất xe hơi
Volvo và hãng thời trang bình dân H&M của Thụy Điển đã mở cửa hàng tại Việt
Nam. Tập đoàn sản xuất đồ gia dụng, nội thất nổi tiếng thế giới của Thụy Điển
là IKEA sẽ sớm có hoạt động tương tự.
III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN
Thụy Điển là nước Tây Bắc
Âu viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho Việt Nam (bắt đầu từ 1967), tổng viện
trợ trên 3.5 tỷ USD, tập trung vào các lĩnh vực: y tế, cải cách kinh tế, xây
dựng thể chế, cải cách hành chính, luật pháp, phát triển nguồn nhân lực, môi
trường và biến đổi khí hậu, chống tham nhũng, nhà nước pháp quyền,….
Sau năm 2013, Thụy Điển chấm
dứt cung cấp viện trợ phát triển song phương cho Việt Nam, quan hệ hợp tác phát
triển giữa hai nước chuyển sang quan hệ đối tác bình đẳng cùng có lợi. Tuy
nhiên, Thụy Điển sẽ tiếp tục viện trợ thông qua các tổ chức đa phương như LHQ,
WB… để hỗ trợ Việt Nam thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ ứng phó với biến
đổi khí hậu, bình đẳng giới,…
IV. HỢP TÁC VĂN HÓA - GIÁO DỤC – KHOA HỌC CÔNG NGHỆ - DU
LỊCH
Trước đây, với sự hỗ trợ của Sida (Cơ quan Hợp tác phát
triển quốc tế Thụy Điển), hợp tác văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ hai
nước phát triển mạnh. Thụy Điển là một trong những nước cung cấp viện trợ phát
triển nhiều nhất và có hiệu quả nhất cho ngành văn hóa VN với những dự án trong
các lĩnh vực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, nâng cao kỹ năng và nghiệp vụ
trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình và báo viết của VN. Hai bên đã ký 2 Hiệp
định hợp tác trên các lĩnh vực văn hóa và truyền thông. Hợp tác trong lĩnh vực
âm nhạc, phim ảnh, nhạc kịch cũng đạt được những kết quả tích cực (Viện Âm nhạc
quốc gia VN đã hợp tác với các trường âm nhạc TĐ trong việc đào tạo âm nhạc
truyền thống VN, tổ chức các khóa đào tạo viết kịch bản, đạo diễn và sản xuất
phim, nâng cao kỹ năng đội ngũ giảng viên của VN…). Trên cơ sở chính sách viện
trợ phát triển quốc tế mới của TĐ, văn hóa không còn là lĩnh vực ưu tiên của
Sida. Do đó, hợp tác văn hóa hai nước trong thời gian tới sẽ tập trung thông
qua kênh hợp tác trực tiếp giữa các cơ sở văn hóa nghệ thuật của hai nước và
mang tính đối tác bình đẳng hơn với sự đóng góp nguồn lực của hai phía.
Về giáo dục – đào tạo, Thụy
Điển đã giúp ta đào tạo chuyên gia, kỹ sư, tiến sĩ trong các ngành lâm nghiệp,
giấy, năng lượng (thủy điện, nhiệt điện, năng lượng hạt nhân…), công nghệ sinh
học, y học, báo chí. Các trường ĐH, viện nghiên cứu hai nước thiết lập mối quan
hệ hợp tác chặt chẽ trong việc đào tạo và trao đổi sinh viên, nghiên cứu sinh,
học thuật (Đại học Y Hà Nội - Viện Karolinska ; Đại học Bách khoa Hà Nội -
Đại học Công nghệ Hoàng gia Stockholm, Đại học Lund, Đại học Umea, Đại học hàng
hải Malmo…). Tuy nhiên, những năm gần đây, hợp tác trong lĩnh vực này có chiều
hướng chững lại và suy giảm. Đặc biệt là sau khi Thụy Điển bỏ chế độ miễn học
phí cho các sinh viên ngoài EU. Cuối năm 2013, Thụy Điển tuyên bố ưu tiên dành
học bổng đào tạo đại học và sau đại học cho Việt Nam, mở ra cơ hội cho các sinh
viên Việt Nam sang Thụy Điển học tập và nghiên cứu. Bên cạnh đó, một số trường
ĐH lớn của Thụy Điển như trường ĐH Uppsala đã liên kết với trường ĐH Quốc gia
Hà Nội mở các khóa đào tạo tại Việt Nam.
Về du lịch, lượng khách
Thụy Điển đến Việt Nam trong năm 2016 đạt 37.679 lượt, tăng 17% so với 2015.
V. NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
Hai nước có quan hệ hợp
tác lâu dài và truyền thống. Trong thập niên 1970, Thụy Điển đã giúp ta xây
dựng dự án Nhà máy giấy Bãi Bằng – một trong những nhà máy giấy lớn và hiện đại
nhất Việt Nam; chương trình “rừng, cây và con người” cuối thập niên 1980 đã góp
phần tạo ra vùng nguyên liệu với hàng ngàn hec-ta rừng và phát triển kinh tế -
xã hội 5 tỉnh vùng trung tâm miền núi phía Bắc. Khi Việt Nam bước sang thời kỳ Đổi
mới, hỗ trợ của TĐ luôn gắn liền với ưu tiên chiến lược, chuyển dần từ hỗ trợ
kỹ thuật sang nâng cao năng lực xây dựng và thực thi chính sách phát triển
ngành với phương thức tiếp cận mới phù hợp với nền kinh tế thị trường[4].
Ngoài ra, TĐ còn hỗ trợ
thử nghiệm các hình thức tiếp nhận viện trợ mới theo tinh thần của Tuyên bố
Paris nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ. TĐ là một trong những đối tác
đầu tiên ủng hộ sáng kiến thành lập Nhóm hỗ trợ quốc tế ISG để giúp ngành nông
nghiệp điều phối các khoản viện trợ quốc tế theo ưu tiên của ngành; hỗ trợ
thành lập các đối tác ngành như Đối tác hỗ trợ ngành lâm nghiệp, Đối tác giảm
nhẹ thiên tai, Đối tác nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Năm 2004, TĐ
cùng Hà Lan, Phần Lan và Thụy Sĩ thành lập Quỹ ủy thác ngành lâm nghiệp – là
loại hình tài trợ hoàn toàn mới theo hình thức “hùn vốn” của các nhà tài trợ
vào một quỹ và do VN quản lý. Quỹ này được đánh giá hoạt động có hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu cấp bách của ngành lâm nghiệp, đặc biệt liên quan đến vấn đề rừng
và biến đổi khí hậu.
VI. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI
VIỆT TẠI THỤY ĐIỂN
Theo Cục Thống kê Thụy
Điển (SCB), cộng đồng người Việt Nam tại Thụy Điển tính đến tháng 10/2016 có
khoảng 16.000 người. Nhìn chung đại
bộ phận người Việt tại Thụy Điển, làm nghề buôn bán nhỏ lẻ và sống hòa nhập với
xã hội sở tại.
VII. CÁC VĂN KIỆN ĐÃ KÝ KẾT
- Hiệp định về nguyên tắc
và thủ tục chung cho hợp tác Việt Nam – Thụy Điển
- Hiệp định tránh đánh
thuế song trùng (1994)
- Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư (1993)
- Các Hiệp định khung về
HTPT theo từng giai đoạn
- Hiệp định hợp tác văn
hóa
- Hiệp định hợp tác về
khoa học kỹ thuật
- Hiệp định hợp tác vận
tải hàng không (1997)
- Hiệp định con nuôi (ký
năm 2005, Thụy Điển đơn phương chấm dứt năm 2008)
- Hiệp định nhận trở lại
công dân (2008)
- Hiệp định phòng chống
tội phạm (2/2013)
Tháng 11/2017
[1] Hungary, Balan và Slovakia công nhận Palestin khi
chưa trở thành thành viên của EU.
[2] Theo thống kê của Palestin.
[3] Tháng 12/2010, Chính phủ Thụy Điển, với lý do cắt giảm ngân sách, đã quyết định đóng
cửa 5 sứ quán Thụy Điển trên thế giới vào năm 2011, trong đó có Sứ quán Thụy
Điển tại Hà Nội. Tuy nhiên, ngày 2/8/2011, sau khi thỏa thuận được vấn đề ngân
sách với liên minh đối lập, Chính phủ Thụy Điển tuyên bố duy trì ĐSQ tại Việt
Nam.
[4] Thông qua Dự án “Đổi mới chiến lược phát triển lâm nghiệp
giai đoạn 1991-1995”, TĐ đã giúp VN tiến hành thí điểm việc giao đất lâm nghiệp
theo Luật Đất đai sửa đổi năm 1993, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm áp dụng
cho việc triển khai rộng rãi chính sách “giao đất, giao rừng”. Lần đầu tiên,
ngành lâm nghiệp thay đổi chiến lược từ tập trung khai thác rừng tự nhiên sang
bảo vệ rừng và phủ xanh đất trống đồi trọc.
Giai đoạn 1996-2001, Thụy Điển hỗ
trợ dự án “Lâm nghiệp trang trại” để giúp phát triển kinh tế trang trại, mô
hình nông lâm kết hợp làm cơ sở thúc đẩy phát triển sản xuất nông-lâm nghiệp
theo hướng hàng hóa; Chương trình “Phát triển nông thôn miền núi Việt Nam” tại
5 tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang và Phú Thọ-là một trong những
chương trình thí điểm triển khai chủ trương “phát huy nội lực của người dân”
trong xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Chương trình “Chia sẻ” hỗ
trợ công cuộc xóa đói giảm nghèo của VN, theo đó nhiều chính sách hỗ trợ nông
dân như: chính sách phát triển tổ hợp tác của nông dân, hướng dẫn hỗ trợ phát
triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao trình độ sản xuất cho
đồng bào các dân tộc và chính sách tiêu thụ nông sản hỗ trợ giảm nghèo; xây
dựng hệ thống thông tin thị trường nông sản tại địa bàn các tỉnh thuộc chương
trình; hỗ trợ tập huấn kỹ năng lập kế hoạch phát triển nông nghiệp sử dụng sơ
đồ logic; phân tích và dự báo kinh tế phục vụ lập kế hoạch phát triển nông
nghiệp gắn với xóa đói giảm nghèo; theo dõi và giám sát đói nghèo…