THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CỘNG HÒA XÉC-BI-A
VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM – XÉC-BI-A
I. Thông tin cơ bản:
-
Tên nước:
Cộng hòa Xéc-bi-a (Republic of Serbia)
-
Thủ đô: Ben-grát
(Belgrade, có dân số 1,115 triệu
người)
-
Ngày Quốc khánh: 15/2 (Ngày nổ ra cuộc khởi nghĩa lần thứ I của người Xéc-bi chống ách
đô hộ của Thổ Nhĩ Kỳ - 15/02/1804. Năm 2001, Quốc hội Xéc-bi-a tuyên bố ngày
15/2 là Quốc lễ).
-
Vị trí địa lý:
Ở Đông - Nam Âu, trên bán đảo Ban-căng, có chung đường biên giới với Bun-ga-ri,
Ru-ma-ni, Hung-ga-ri, Crô-a-ti-a, Bô-xni-a và Héc-dê-gô-vi-na, Ma-xê-đô-ni-a,
Môn-tê-nê-grô và An-ba-ni.
-
Diện tích:
88.407 km2
-
Khí hậu: Khí
hậu ôn đới lục địa.
-
Dân số: 7,12
triệu người; 56%
sống ở thành thị; tỷ lệ tăng dân số: -0,46%; tuổi thọ trung bình: 74,8 tuổi;
phân bố lao động theo lĩnh vực: nông nghiệp 22%, công nghiệp 19,5%, dịch vụ
58,5% (2016).
-
Dân tộc: Người
Xéc-bi chiếm 83%, người Hung-ga-ri 4%, người Bô-xni-ắc 1,8%, người Di-gan 1,4%,
người Môn-tê-nê-grô 1%, còn lại là các dân tộc khác...
-
Tôn giáo: Đa
số theo Cơ đốc giáo Chính thống (85%), còn lại theo đạo Thiên chúa (5,5%), Tin
lành (1,1%) và đạo Hồi (3,2%)…
-
Ngôn ngữ chính thức: Tiếng Xéc-bi
-
Cơ cấu hành chính: Xéc-bi-a được chia thành 5 vùng hành chính là Vôi-vô-đi-na; Bê-ô-grát;
Xu-ma-đi-a và Tây Xéc-bi-a; Đông Nam Xéc-bi-a; Cô-xô-vô và Mê-tô-hi-a; bao gồm
27 tỉnh, 150 xã và 24 thành phố.
- Đơn vị tiền tệ: Đi-na; 01 USD = 87,71 Đi-na (2018)
-
GDP: 42,65
tỷ USD (2018), trong đó, dịch vụ chiếm 62,2%, công nghiệp 32,9% và nông nghiệp 9,1%.
-
Thu nhập bình quân đầu người: 5.990 USD (2018)
-
Lãnh đạo chủ chốt:
o Tổng thống: A-lếch-xan-đa Vu-chích (Alexandar Vucic; thuộc Đảng Tiến
bộ Xéc-bi-a; từ 02/4/2017).
o Chủ tịch
Quốc hội: Mai-a Gôi-cô-vích (Maja Gojkovic; từ 3/2014).
o Thủ Tướng: Ana Brnabic (A-na Bờ-rơ-na-bích, được Tổng thống bổ
nhiệm từ ngày 16/6/2017).
o Phó Thủ
tướng thứ nhất, Bộ trưởng Ngoại giao:
I-vi-xa Đa-chích (Ivica Dacic; Chủ
tịch Đảng Xã hội Xéc-bi-a; từ 4/2014, được bầu lại sau kỳ bầu cử Quốc hội trước
thời hạn tháng 4/2016).
II. Khái quát lịch sử, văn hóa
Người Xéc-bi (thuộc chủng Xla-vơ) di cư từ Bắc
Cáp-ca-dơ đến Xéc-bi-a ngày nay từ đầu thế kỷ VI đến thế kỷ VIII sau Công
nguyên. Công quốc đầu tiên của người Xéc-bi được lập ra vào thế kỷ VIII và đến
giữa thế kỷ X bị đế chế Đông La Mã đô hộ. Năm 1040, Xéc-bi-a giành được độc lập
nhưng đến cuối
thế kỉ 15 lại bị
Ốt-tô-man (Thổ Nhĩ Kỳ) đô hộ. Năm 1815,
cuộc khởi nghĩa của người Xéc-bi thắng lợi và đạt thỏa hiệp với Ốt-tô-man. Năm
1867, Ốt-tô-man phải rút khỏi Xéc-bi-a. Năm 1876, Xéc-bi-a đứng về phía Nga
tuyên chiến với Ốt-tô-man và giành lại được Bô-xni-a. Năm 1878, Hội nghị
Béc-lin về chấm dứt chiến tranh đã công nhận nền độc lập của Xéc-bi-a, tuy
nhiên, lại đặt Bô-xni-a dưới sự chiếm đóng của đế quốc Áo-Hung. Trong Chiến
tranh Ban-căng lần thứ I (1912), Xéc-bi-a chiếm lại Ma-xê-đô-ni-a và Cô-xô-vô
từ tay Ốt-tô-man. Trong Chiến tranh thế giới thứ I, quân đội Xéc-bi-a phải rút
sang Hy Lạp và đảo Co-rơ-phu (1915) nhưng cuối cùng đã giải phóng được Xéc-bi-a
vào cuối năm 1918. Ngày 01/12/1918, “Vương
quốc của người Xéc-bi, người Crô-át và người Xlô-ven” được thành lập và đến
năm 1929 đổi
thành Vương
quốc Nam Tư. Trong Thế chiến II, Nam
Tư bị phát-xít Đức, Ý, Hung-ga-ri và Bun-ga-ri chiếm đóng. Cuối năm 1944, lực lượng
du kích cộng sản Nam Tư đã giải phóng đất nước và thành lập Cộng hòa Liên bang Nhân dân Nam Tư vào ngày 29/11/1945 (đến năm
1963 đổi thành CHXHCN Liên bang Nam Tư).
Đầu thập niên 1990, các nước cộng
hòa Xlô-vê-ni-a, Crô-a-ti-a, Bô-xni-a và Héc-dê-gô-vi-na, Ma-xê-đô-ni-a lần
lượt tuyên bố độc lập, tách khỏi Nam Tư. Tháng 4/1992, hai nước cộng hòa
Xéc-bi-a và Môn-tê-nê-grô thành lập Cộng
hòa Liên bang Nam Tư (đến năm 2003 đổi thành Xéc-bi-a và Môn-tê-nê-grô). Ngày 03/06/2006, Môn-tê-nê-grô tuyên bố độc lập. Hai ngày sau, Xéc-bi-a cũng tuyên bố độc lập và kế thừa Nam Tư.
Tại tỉnh Cô-xô-vô, từ năm 1996, người An-ba-ni bắt đầu tấn công các lực lượng Chính
phủ. Từ ngày
24/03–10/06/1999, NATO đã không kích
ồ ạt Nam Tư
nhằm buộc nước này rút quân khỏi Cô-xô-vô. Với sự trung gian của Nga, Nam Tư đã đạt thỏa thuận với NATO và rút quân khỏi Cô-xô-vô. Ngày 10/06/1999, Hội đồng Bảo an LHQ ra Nghị quyết 1244
đặt Cô-xô-vô dưới sự quản lý của chính quyền quá độ của LHQ (UNMIK). Ngày 17/02/2008, Cô-xô-vô đã đơn
phương tuyên
bố độc lập nhưng cho đến nay chưa được Xéc-bi-a công nhận.
Cộng hòa Xéc-bi-a theo mô hình nhà nước cộng hòa nghị
viện – tổng thống. Tổng thống do dân bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 5 năm và có quyền
được tái đắc cử 1 lần. Quốc hội một viện (National Assembly) gồm 250 đại biểu,
do dân bầu trực tiếp, nhiệm kỳ 4 năm. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng sau khi
được Quốc hội thông qua. Bầu cử Quốc hội gần đây nhất vào tháng 4/2016.
IV. Giới thiệu về kinh tế
Thời kỳ nằm trong Liên bang Nam Tư, kể từ năm 1945 đến
đầu thập niên 1980, Xéc-bi-a đã đạt được những thành tựu to lớn về phát triển
kinh tế - xã hội. Cuối thập niên 1980, Xéc-bi-a bắt đầu chuyển đổi từ nền kinh
tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đã phải gánh chịu những hậu
quả nặng nề của chiến tranh và sự trừng phạt kinh tế của phương Tây (1992-2000). Từ
năm 2001, nền kinh tế Xéc-bi-a dần hồi phục, GDP tăng trưởng trung bình 4,45%
giai đoạn 2001-2008. Tuy nhiên, chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp
của nước ngoài, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn (năng lượng,
viễn thông, đường sắt…). Xéc-bi-a đã ký FTA với EU, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Khối mậu
dịch tự do Trung Âu CEFTA, được hưởng GSP của Mỹ và hiện đang đàm phán gia nhập
WTO.
Những ngành công nghiệp chủ yếu của Xéc-bi-a là sản
xuất ô tô, khai mỏ, luyện kim màu, hóa dầu, chế biến thực phẩm, điện tử, dược,
may mặc. Xéc-bi-a đứng thứ 7 châu Âu về sản lượng than đá, thứ 3 về sản lượng
đồng; tự chủ được 43% nhu cầu về dầu lửa, 17% nhu cầu về khí đốt, phần còn lại
được nhập khẩu chủ yếu từ Nga. Về nông nghiệp, Xéc-bi-a có sản lượng mận đứng thứ
2 và mâm xôi thứ 3 thế giới; là một trong những nước cung cấp hoa quả đông lạnh
hàng đầu cho EU (thứ 1 tại Pháp, thứ 2 tại Đức). Xéc-bi-a có một số công ty lớn
như: NIS (dầu khí),
Srbijagas (khí đốt), EPS (điện lực), Zastava (ô tô), Yugoimport SDPR (công
nghiệp quốc phòng), Galenika (dược phẩm)… Những năm gần đây Xéc-bi-a đã tiếp
nhận nhiều dự án FDI lớn của các tập đoàn nước ngoài như: Fiat của Ý; US
Steel, Coca Cola, Microsoft của Mỹ; Bosch, Siemens, Stada của Đức; Nestlé,
Michelin của Pháp; Heineken của Hà Lan; Carlsberg của Đan Mạch; Panasonic của
Nhật; Lukoil, Gazprom
của Nga...
Năm 2009, Xéc-bi-a bị ảnh hưởng mạnh bởi khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, GDP giảm 3%. Từ năm 2010, kinh tế Xéc-bi-a phục hồi và tăng
trưởng dần đều, GDP mỗi năm tăng khoảng 1,5%. Với mục tiêu phát triển kinh tế
nhằm tiến tới gia nhập EU, Chính phủ Xéc-bi-a đã và đang áp dụng một gói biện
pháp mạnh bao gồm: giảm 20-25% lương của 70 vạn lao động thuộc khu vực công;
tăng thuế VAT từ 8% lên 10% đối với hàng hóa phi thực phẩm; tư nhân hóa 180
doanh nghiệp và tái cơ cấu các tập đoàn lớn; cải cách luật lao động; chuyển đổi
hướng đầu tư theo mô hình đối tác công-tư; đàm phán vay vốn IMF.
V. Chính
sách đối ngoại
Về đối ngoại, hiện Xéc-bi-a đang tập trung vào 2 mục
tiêu lớn là hội nhập EU và giải quyết vấn đề Cô-xô-vô, đồng thời, ưu tiên quan
hệ với Nga, Trung Quốc để cân bằng ảnh hưởng với EU và Mỹ. Trong chuyến thăm
Nga của Tổng thống T. Nikolic (24/05/2013), hai bên đã ký Tuyên bố chung về
thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược. Nhân chuyến thăm Trung Quốc của Tổng
thống Nikolic (28/08/2013), hai bên đã
ký Tuyên bố chung về sâu sắc hóa quan hệ Đối tác chiến lược.
Hiện Xéc-bi-a là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế
như: FAO, IAEA, ICAO, ICC, ILO,
IMF, Interpol, IOC, NAM (Phong trào không liên kết – quan sát viên), OSCE, Liên
hợp quốc, UNCTAD, UNESCO, UNHCR, UNIDO, WTO (quan sát viên)…
QUAN HỆ VỚI VIỆT NAM
I.
QUAN HỆ CHÍNH TRỊ
Việt Nam và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nam Tư
thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 10/03/1957. Xéc-bi-a tuyên bố kế thừa Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Nam Tư và Liên bang Xéc-bi-a – Môn-tê-nê-grô nên
ngày này cũng là ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Xéc-bi-a.
Đầu thập niên 1990, quan hệ Việt Nam – Nam Tư không có
tiến triển đáng kể do chiến tranh Nam Tư kéo dài. Tháng 10/1992, Việt Nam đã rút
Đại sứ quán tại Ben-grát và cử Đại sứ tại Ru-ma-ni kiêm nhiệm. Tháng 01/2002,
Bạn đóng cửa Đại sứ quán tại Hà Nội và cử Đại sứ tại In-đô-nê-xi-a kiêm nhiệm
Việt Nam. Gần đây quan hệ giữa ta và Xéc-bi-a có những tiến triển tích cực, hai
bên đang xem xét việc mở lại Đại sứ quán tại Hà Nội và Ben-grát.
Tình hình
trao đổi đoàn:
Năm
|
Đoàn ra
|
Đoàn vào
|
2000
|
|
Bộ
trưởng Ngoại giao Di-va-đin I-ô-va-nô-vích (6/2000)
|
2008
|
|
Bộ
trưởng Ngoại giao Vúc Giê-rê-mích (3/2008)
|
2011
|
Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm(4/2011)
|
Bộ
trưởng Ngoại giao Vúc Giê-rê-mích (2/2011)
|
2013
|
|
Bộ
trưởng Ngoại giao I-van Mơ-rơ-kích (27/02-02/03/2013)
|
2017
|
|
Đặc
phái viên của Thủ tướng Goran Aleksic (22/5/2017).
|
|
|
Phó
Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao I-vi-ca Đa-chích (7-11/9/2017)
|
Về hợp tác
giữa hai Bộ Ngoại giao, ta đã cử đoàn
cấp Thứ trưởng và Tổng vụ trưởng sang tham vấn chính trị với Bộ Ngoại giao Bạn
vào các năm 2007 và 2012. Thứ trưởng Ngoại giao Lê Lương Minh đã có cuộc tiếp
xúc với Bộ trưởng Ngoại giao Xéc-bi-a bên lề Hội nghị cấp Bộ trưởng Phong
trào Không liên kết được tổ chức tại Ai Cập (07-10/05/2012).
Tại các tổ
chức và diễn đàn quốc tế, hai bên
phối hợp chặt chẽ và hiệu quả. Xéc-bi-a đã ủng hộ Việt Nam ứng cử vào Hội đồng
Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016 và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021.
Ta đã ủng hộ ứng cử viên của Xéc-bi-a là ông Vúc Giê-rê-mích làm Chủ tịch Đại
hội đồng Liên hợp quốc khóa 67. Trong vấn đề Biển Đông, Bạn khẳng định ủng hộ
quan điểm của Việt Nam về việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình,
trên cơ sở luật pháp quốc tế.
II. QUAN HỆ
KINH TẾ VÀ CÁC LĨNH VỰC KHÁC
Trong những năm gần đây, quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Xéc-bi-a từng bước được khôi
phục và phát triển. Việt Nam chủ yếu xuất thủy sản, giầy dép, điện thoại, điện
tử, hàng dệt may. Phần lớn hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào Xéc-bi-a thông
qua các nước láng giềng như Bungari, Rumani, Hungary… Việt Nam nhập từ Xéc-bi-a
lúa mì, gỗ, máy móc, thiết bị.
Kim ngạch
xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Xéc-bi-a
Đơn vị: triệu USD
Năm
|
2011
|
2012
|
2013
|
2014
|
2015
|
2016
|
2017
|
2018
|
Xk
|
7.77
|
11.5
|
11.8
|
18.2
|
17.3
|
15.5
|
16.9
|
17.2
|
Nk
|
0.12
|
0.4
|
0.8
|
1.4
|
0.6
|
9.9
|
9.7
|
9.8
|
Tổng
|
7.89
|
11.9
|
12.6
|
19.6
|
17.9
|
25.4
|
26.6
|
27
|
Hai bên cũng đã nhất trí thúc đẩy ký kết Hiệp định Hợp tác kinh tế và Hiệp định Khuyến khích, bảo hộ đầu tư và
tránh rủi ro phi thương mại
Về giáo dục, Bạn đang dành cho ta 2 suất học bổng/năm (thông qua
Bộ Ngoại giao) và mong muốn hai bên sớm ký Hiệp
định Hợp tác văn hóa và giáo dục (hai bên đang trao đổi dự thảo).
Về quốc
phòng, Bạn tỏ sẵn sàng tăng cường hợp
tác chuyển giao công nghệ bảo trì, sửa chữa, nâng cấp trang thiết bị quân sự và
đề xuất hai bên sớm ký Thỏa thuận Hợp tác
trong lĩnh vực quốc phòng (Bạn đã trao dự thảo cho ta tháng 6/2013; Bộ Quốc
phòng ta đề xuất sẽ ký vào thời điểm phù hợp).
Về lãnh sự, hai bên đã ký Hiệp định miễn thị thực cho người mang
hộ chiếu ngoại giao, công vụ năm 2000. Bạn đã đề nghị ta chấp thuận để Đại sứ
quán Bạn tại In-đô-nê-xi-a đại diện quyền lợi lãnh sự của các công dân Bô-xni-a
và Héc-dê-gô-vi-na có mặt tại Việt Nam, trên cơ sở Hiệp định hỗ trợ lãnh sự
giữa Bạn và nước này.
III.
CÁC HIỆP ĐỊNH KHUNG ĐÃ KÝ GIỮA HAI NƯỚC
STT
|
Tên hiệp
định
|
Năm ký
|
1
|
Hiệp
định về hợp tác khoa học - kỹ thuật
|
1974
|
2
|
Hiệp
định về vận tải hàng không dân dụng (hai bên đang chuẩn bị đàm phán ký mới)
|
1978
|
3
|
Hiệp
định về hợp tác văn hóa
|
1982
|
4
|
Hiệp
định về Thương mại và hệ thống thanh toán
|
1988
|
5
|
Hiệp
định miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao, công vụ
|
2000
|
6
|
Bản
ghi nhớ hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao
|
2011
|
7
|
Hiệp
định tránh đánh thuế trùng
|
2013
|
8
|
Thỏa
thuận công nhận lẫn nhau về quy chế kinh tế thị trường
|
2013
|