Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên trả lời phỏng vấn Đoàn Câu lạc bộ báo chí Nhật Bản -8/11/2002
Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên trả lời phỏng vấn
Đoàn Câu lạc bộ báo chí Nhật Bản
(Ngày 18/11/2002)
Câu hỏi 1: Xin Ngài cho biết quan điểm của mình về thỏa thuận đạt được trong cuộc gặp ASEAN + 3 mới đây nhằm gây áp lực với Bắc Triều Tiên từ bỏ kế hoạch phát triển vũ khí hạt nhân của họ?
Trả lời :
Tại Hội nghị này, các nhà lãnh đạo đã đề cập tới tình hình bán đảo Triều Tiên và những tác động tiêu cực đối với kinh tế, chính trị khu vực và thế giới, nếu như vấn đề này không được giải quyết một cách hoà bình. Cùng với các nước ASEAN, Việt Nam mong muốn có hoà bình, ổn định trên bán đảo Triều Tiên, hoan nghênh cuộc gặp Thượng đỉnh Liên Triều và những tiến triển gần đây trong quan hệ giữa hai miền cũng như việc cải thiện quan hệ giữa Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên với các nước. Chúng tôi coi đây là một bước tiến tích cực mới, góp phần làm dịu tình hình căng thẳng ở Bán đảo Triều Tiên, góp phần duy trì hoà bình và ổn định ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam và ASEAN ủng hộ và sẵn sàng đóng góp thúc đẩy quá trình này. Về vấn đề vũ khí hạt nhân, Việt Nam ủng hộ quá trình giải trừ quân bị toàn diện và triệt để, trong đó có giải trừ quân bị hạt nhân. Năng lượng hạt nhân cần và chỉ có thể được sử dụng vào mục đích hoà bình, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của con người.
Câu hỏi 2: Ngài có cho rằng cần sự hiện diện quân đội Mỹ để củng cố hòa bình và an ninh tại khu vực hay không ?
Trả lời :
Ngay tại Nhật Bản cũng như trong khu vực có các cách nhìn nhận khác nhau về sự có mặt của quân đội nước ngoài. Chúng tôi cho rằng phương cách tốt nhất để củng cố hòa bình và an ninh tại khu vực là thông qua hợp tác và các biện pháp xây dựng lòng tin giữa các quốc gia. Chúng tôi không mong muốn sự có mặt của quân đội nước ngoài làm ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh và ổn định của các nước khác và của khu vực.
Câu hỏi 3: Việt Nam và Nhật Bản sẽ kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 2003. Để tăng cường hơn nữa quan hệ hai nước, chính phủ Nhật Bản đang soạn nhiều chương trình để kỷ niệm. Xin Ngài cho biết những kế hoạch cụ thể của phía Việt Nam nhân dịp này?
Trả lời :
Năm 2003, hai nước Việt Nam-Nhật Bản sẽ tiến hành các hoạt động trọng thể kỷ niệm 30 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ hai nước. Lãnh đạo cấp cao hai nước đã thoả thuận sẽ Tổ chức Tháng Việt Nam và Tháng Nhật Bản ở mỗi nước trong dịp kỷ niệm này. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực chuẩn bị kế hoạch cụ thể để tổ chức các hoạt động kỷ niệm. Ngoài việc tiến hành trao đổi các đoàn chính thức, dự kiến sẽ có các hoạt động giới thiệu về văn hoá du lịch Việt Nam tại Nhật Bản dưới hình thức Festival Việt Nam cũng như các hoạt động giới thiệu các nét đặc sắc của nền văn hoá truyền thống Nhật Bản đến công chúng Việt Nam, tiến hành các hội thảo giới thiệu về kinh tế xã hội Việt Nam tại Nhật nhằm thúc đẩy phát triển hợp tác kinh tế, đẩy mạnh giao lưu giữa nhân dân hai nước. Mong muốn các hoạt động kỷ niệm này sẽ góp phần tăng cường sự hiểu biết giữa hai dân tộc, tạo cơ sở phát triển quan hệ Việt-Nhật theo hướng “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”.
Câu hỏi 4 : Nhật Bản là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Việt Nam cần trợ giúp của Nhật Bản trong những lĩnh vực nào?
Trả lời :
Nhật Bản là nước cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam. ODA của Nhật Bản chiếm tới 40% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế cho Việt Nam, đóng vai trò rất quan trọng và hiệu quả trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Từ tình hình thực tế của Việt Nam và mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước Việt Nam-Nhật Bản hiện nay, chúng tôi mong rằng Chính phủ Nhật Bản sẽ tiếp tục dành ưu tiên về ODA cho Việt Nam trên các lĩnh vực hai bên cùng quan tâm như xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo... cũng như trong các chương trình viện trợ chung của Nhật như Quỹ IT, Quỹ phòng chống dịch bệnh và các chương trình viện trợ chung cho ASEAN, đặc biệt là chương trình viện trợ cho các nước thành viên mới.
Câu hỏi 5 : Ngài nghĩ như thế nào về AFTA? Bên cạnh AFTA, liệu Việt Nam có khả năng ký hiệp định về khu vực mậu dịch tự do tay đôi với nước nào không?
Trả lời :
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) bắt đầu được thực hiện từ 01 tháng 01 năm 1993 và hoàn thành đối với các nước ASEAN - 6 vào ngày 01 tháng 01 năm 2002, Việt Nam năm 2005, Lào, My-an-ma năm 2007 và Cam-pu-chia năm 2009 theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN tháng 9 năm 2002 vừa qua tại Brunei. Việc hoàn tất thực hiện các nghĩa vụ AFTA đối với tất cả 10 nước ASEAN sẽ mở ra một thị trường rộng lớn với khoảng 500 triệu người tiêu dùng ở Đông Nam Á, với những mức thuế quan ưu đãi và hàng rào phi quan thuế được giảm thiểu, hứa hẹn những cơ hội đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thành lập AFTA có tác dụng kích thích khả năng tự cường kinh tế của từng quốc gia thành viên cũng như của cả ASEAN, thúc đẩy hơn nữa thương mại nội khối ASEAN, mở rộng các cơ hội đầu tư và sản xuất. Đối với Việt Nam, việc thực hiện CEPT/AFTA còn có ý nghĩa tạo nền tảng cho Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đang hết sức nỗ lực và thực hiện nghiêm túc lộ trình của AFTA, theo đó sẽ từng bước tiến hành giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% vào năm 2005. Chúng tôi hết sức lạc quan vào triển vọng hợp tác và hội nhập ở mức cao hơn của ASEAN trong tương lai. Việt Nam sẵn sàng đàm phán để ký các hiệp định thương mại tự do song phương với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, góp phần củng cố hòa bình, ổn định và phát triển phồn vinh ở khu vực cũng như trên toàn thế giới.
Câu hỏi 6: Theo Ngài, những nhân tố nào là quan trọng nhất trong việc tăng cường quan hệ với Hoa Kỳ và Trung Quốc
Trả lời :
Với đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, Việt Nam chủ trương coi trọng phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, nhất là quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, các nước láng giềng và các nước lớn. Theo tinh thần đó, chúng tôi đã và đang xây dựng mối quan hệ với Hoa Kỳ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Mối quan hệ đó phù hợp với lợi ích của nhân dân hai nước, của hoà bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ hữu nghị truyền thống. Trong 10 năm qua, quan hệ hữu nghị và sự hợp tác giữa hai Đảng, hai Nhà nước trên tất cả các lĩnh vực phát triển mạnh mẽ, theo phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”. Cùng với việc tăng cường quan hệ chính trị-ngoại giao, quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ không ngừng phát triển : kim ngạch buôn bán Việt Nam-Trung Quốc đã tăng từ 32 triệu USD năm 1991 lên 2,8 tỷ USD năm 2001; kim ngạch thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2001 đạt trên 1,5 tỷ USD; Hoa Kỳ hiện đứng thứ mười trong số các các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 130 dự án với tổng số vốn đăng ký đạt 1,4 tỷ USD. Đối với chúng tôi, Trung Quốc và Hoa Kỳ đều là bạn hàng lớn, nhà đầu tư lớn, thị trường lớn và đối tác quan trọng trong cả quá trình phát triển của mình.
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail |
Các tin liên quan: |
|