Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên: Chính sách và hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới
CHÍNH SÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(Bài viết của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên đăng trên Tạp chí Cộng sản số 740, ngày 17/9/2005)
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đến nay đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo tiền đề và động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đổi mới công tác đối ngoại, mà trước hết là đổi mới về chính sách và hoạt động đối ngoại là bộ phận rất quan trọng trong công cuộc đổi mới toàn diện. Tiến tới Đại hội lần thứ X của Đảng, việc nghiên cứu, đánh giá và tổng kết quá trình đổi mới sẽ góp phần đưa hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta lên tầm cao mới, đáp ứng những đòi hỏi của tình hình hiện nay cũng như trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Đổi mới chính sách đối ngoại và hoạt động đối ngoại là một quá trình liên tục, xuyên suốt
Trong những năm 80 của thế kỷ XX, đất nước ta đứng trước những khó khăn rất hiểm nghèo. Ở trong nước, chúng ta phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, kéo dài. Về đối ngoại, chúng ta phải đương đầu với tình trạng bị cô lập về chính trị, bị bao vây cấm vận về kinh tế. Trong khi đó, trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ diễn ra như vũ bão, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa nổi lên, đặt ra những cơ hội và thách thức cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, xuất phát từ tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đã phân tích và đánh giá đúng những thuận lợi và khó khăn của đất nước thông qua đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là đổi mới về kinh tế. Về đối ngoại, Đại hội VI khẳng định: "Trong những năm tới, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại" (1).
Đổi mới về kinh tế nhanh chóng mở rộng sang các lĩnh vực khác, trong đó có đối ngoại. Tháng 5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ra Nghị quyết số 13 về "nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới" với chủ đề "giữ vững hòa bình, phát triển kinh tế". Nghị quyết nhấn mạnh chính sách "thêm bạn bớt thù", đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi (2). Tiếp đó, Hội nghị Trung ương 6, khóa VI (tháng 3-1989) ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ cần chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế (3). Những đổi mới về tư duy và chính sách đối ngoại trên đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, đem lại kết quả bước đầu trong việc phá bỏ thế bao vây cấm vận.
Bước vào thập kỷ 90, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã đặt chúng ta trước những thách thức mới rất cam go. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu trong việc triển khai chính sách đối ngoại mới đã tạo tiền đề để Đảng ta đưa ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" (4). Hội nghị Trung ương 3, khóa VII đã đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là "giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí và hoàn cảnh của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có thể quan hệ" (5).
Sau 10 năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội nước ta dần đi vào ổn định; thế và lực của ta được nâng cao hơn; quan hệ quốc tế được mở rộng; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện; khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập được tăng cường. Tuy nhiên, chúng ta còn phải đối phó với nhiều khó khăn, thử thách, bao trùm lên tất cả là "Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt" (6).
Đại hội VIII (tháng 6-1996) và Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối đối ngoại thông qua việc khẳng định "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" (7). Ngoài ra, Đại hội còn nhấn mạnh, Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Tháng 11-2001, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết riêng về hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc cục diện thế giới, khu vực từ 1991 đến nay; chỉ ra một cách có hệ thống những thành tựu, bài học kinh nghiệm về đối ngoại; đồng thời nêu ra những phương hướng chủ yếu trong hoạt động đối ngoại trong những năm tới với việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, lợi ích cao nhất của đất nước. Đây là một mốc hết sức quan trọng trong nhận thức, định hướng cho chính sách đối ngoại và hoạt động quốc tế của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới.
Những thành tựu của công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới
Đổi mới trong chính sách và hoạt động đối ngoại đã hòa nhịp cùng với đổi mới trên mọi lĩnh vực của đất nước, đem lại những thành tựu rất to lớn, được thể hiện trên các mặt:
Từ chỗ bị bao vây cấm vận, đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước; đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta có quan hệ với tất cả các nước, trung tâm chính trị - kinh tế lớn trên thế giới.
Chúng ta đã tạo được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và đan xen lợi ích với tất cả các nước láng giềng, khu vực: Quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào không ngừng được củng cố và mở rộng, hợp tác kinh tế ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Quan hệ với Cam-pu-chia được đổi mới theo hướng mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, phối hợp giải quyết các vấn đề an ninh, biên giới, lãnh thổ trong khuôn khổ các tổ chức khu vực và quốc tế. Quan hệ với Trung Quốc được bình thường hóa hoàn toàn và nâng lên tầm cao mới theo phương châm 16 chữ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Lần đầu tiên trong lịch sử, hai nước đã ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền, Hiệp định về Phân định vịnh Bắc Bộ, Hiệp định giải quyết vấn đề lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ. Sau khi gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực, góp phần vào việc củng cố đoàn kết, duy trì những nguyên tắc cơ bản, tăng cường hợp tác nội khối, góp phần nâng cao vai trò, vị trí của của hiệp hội ở khu vực và trên trường quốc tế.
Nước ta đã chủ động duy trì và thúc đẩy quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống như Nga, Cu Ba, Ấn Độ, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Mông Cổ; các nước thuộc Cộng đồng các quốc gia độc lập, Trung - Đông Âu trên nhiều lĩnh vực, thể hiện tình nghĩa thủy chung, đoàn kết trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng ta đã chủ động khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác với các nước châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, nêu cao tinh thần đoàn kết và ủng hộ các nước bạn trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và tự quyết dân tộc. Mặc dù chưa tương xứng với tiềm năng và mong muốn của các bên, song kim ngạch buôn bán và đầu tư giữa ta và các nước này đã và đang có những phát triển tích cực.
Không những thế, nước ta cũng đã bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác cùng có lợi với các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Từ chỗ là hai nước thù địch trước đây, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp tác trên nhiều lĩnh vực với Mỹ trên tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Trong chuyến thăm Mỹ tháng 6-2005 của Thủ tướng Phan Văn Khải, hai nước đã xác lập khuôn khổ "quan hệ hữu nghị, đối tác xây dựng, hợp tác nhiều mặt, ổn định, lâu dài trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi". Nước ta tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Tây Bắc Âu, nhất là trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển, văn hóa, du lịch, chuyển giao công nghệ. Các nước này hiện đã trở thành những đối tác và thị trường hàng đầu của ta.
Nước ta đã triển khai mạnh mẽ công cuộc hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực của ASEAN, tham gia ngày càng sâu rộng vào các định chế kinh tế, tài chính, thương mại của ASEAN như Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA); là thành viên của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); có quan hệ chặt chẽ với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB)... Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh đàm phán và xúc tiến việc chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát triển đất nước thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Bằng những việc làm trực tiếp, cụ thể, hoạt động đối ngoại đã phục vụ cho việc hoạch định chính sách kinh tế, đặc biệt là công tác nghiên cứu, tham mưu, thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư, mở rộng các thị trường buôn bán, lao động, du lịch; tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam với các nước khác. Đến nay, chúng ta đã thu hút được tổng cộng 45 tỉ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đạt 26 tỉ USD. Giai đoạn 2001 -2005, viện trợ phát triển chính thức dành cho ta đạt 13,3 tỉ USD.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết hợp chặt chẽ với các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc, Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế; đồng thời đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi trọng. Về nhận thức, Đảng ta khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây, Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã được ban hành. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách cụ thể theo hướng xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài và người Việt ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và tham gia đóng góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam ở nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
Những thành tựu to lớn về đối ngoại trong 20 năm qua cho phép chúng ta rút ra những bài học chủ yếu sau:
Bài học quan trọng nhất là phải luôn phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường đi đôi với tăng cường đoàn kết và mở rộng hợp tác quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; xác định đúng, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu; có cách nhìn đúng đắn, linh hoạt về đối tượng và đối tác trong bối cảnh mới.
Bài học về thường xuyên đổi mới tư duy đối ngoại: Điều này chỉ có thể có được bằng việc vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, mà nổi bật là nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "thêm bạn bớt thù". Quá trình đổi mới tư duy phải luôn gắn chặt với hoàn cảnh thực tế, yêu cầu nhiệm vụ cấp thiết của đất nước, trên quan điểm nhìn nhận Việt Nam là một bộ phận của thế giới, có sự gắn bó, tác động qua lại mật thiết với thế giới bên ngoài. Đổi mới tư duy đối ngoại thể hiện ở cách nhìn nhận, tiếp cận mới khi đánh giá, dự báo tình hình thế giới, xu thế của thế giới, thời đại.
Bài học về công tác lý luận, nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình: Thực tiễn cho thấy phải luôn luôn chú trọng công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình, tổng kết lý luận và thực tiễn để kịp thời rút ra những bài học quý báu cho các giai đoạn tiếp theo của công tác đối ngoại.
Bài học về thống nhất đối ngoại: Phải không ngừng hoàn thiện cơ chế thống nhất quản lý đối ngoại nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của cả nước trong triển khai chính sách và hoạt động đối ngoại.
Bài học về công tác cán bộ: Phải luôn quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thời kỳ mới.
Tiếp tục đổi mới công tác đối ngoại trong tình hình mới
Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, bất trắc và khó lường. Quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục đan xen cả về hai mặt đấu tranh và hợp tác - thỏa hiệp. Xu hướng cường quyền trong quan hệ quốc tế cũng như cuộc đấu tranh giữa đơn cực và đa cực, đơn phương và đa phương vẫn tiếp diễn. Nhiều "điểm nóng" chưa được giải quyết và vẫn còn nguy cơ bùng nổ. Tuy chiến tranh thế giới ít có khả năng nổ ra, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột, chạy đua vũ trang, khủng bố... còn xảy ra ở nhiều nơi với quy mô, mức độ khác nhau. Hòa bình, hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu thế lớn của thế giới. Khủng bố quốc tế và chống khủng bố, các vấn đề toàn cầu khác như đói nghèo, dịch bệnh, môi trường, tội phạm xuyên quốc gia tiếp tục thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và hoạt động đối ngoại của các quốc gia. Kinh tế thế giới và khu vực phục hồi, phát triển nhưng vẫn ẩn chứa những nguy cơ xuất phát từ mặt trái của toàn cầu hóa; cạnh tranh gay gắt và thiếu công bằng giữa các quốc gia và các tập đoàn đa quốc gia; thị trường tài chính bấp bênh và giá nhiên liệu biến động ở mức cao.
Ở trong nước, tuy thế và lực đã được tăng lên đáng kể, nhưng đất nước ta vẫn phải đối phó với âm mưu "diễn biến hòa bình" và các hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Tham gia vào hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, nước ta đang đứng trước sức ép rất lớn, do đó phải có sự chuẩn bị chu đáo, nâng cao khả năng cạnh tranh nếu không muốn lâm vào thế bất lợi trong cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường thế giới. Bốn nguy cơ đối với nước ta mà Đảng đã chỉ rõ vẫn tồn tại, diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Nhìn từ góc độ đối ngoại, nguy cơ bị tụt hậu có khả năng tác động mạnh tới diễn biến của các nguy cơ khác.
Những thuận lợi và khó khăn, thách thức đối với nước ta luôn đan xen nhau, tuy nhiên thuận lợi vẫn là chủ yếu. Nhân tố có ý nghĩa quyết định là tiềm lực mọi mặt và vị thế quốc tế của nước ta được tăng cường qua gần 20 năm đổi mới đã củng cố thêm niềm tin vào công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, nâng cao sự nhất trí trong toàn Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Trên bình diện quốc tế, mặc dù tình hình còn diễn biến phức tạp nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Chúng ta có đầy đủ khả năng giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là nền tảng cơ bản để chúng ta xác định đường lối đối ngoại và triển khai mạnh mẽ hơn các hoạt động quốc tế trong giai đoạn mới.
Những thành tựu đã đạt được trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong 20 năm qua cũng như những bài học kinh nghiệm tạo cơ sở để chúng ta cùng suy ngẫm một số vấn đề về phương hướng công tác đối ngoại thời gian tới:
Một là, mục tiêu và lợi ích cao nhất của ta vẫn là giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, tạo mọi điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế năng động, bền vững. Do vậy, cần tiếp tục hoàn thiện và kiên trì theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế. Theo đó, cần tích cực xây dựng và triển khai thực hiện các khuôn khổ quan hệ ổn định, lâu dài hiện có với các đối tác theo đúng phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước", đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích, củng cố an ninh đất nước và tạo môi trường thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế.
Hai là, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, cả song phương và đa phương, nhất là hướng tới gia nhập WTO. Xây dựng, hoàn thiện chiến lược tổng thể và lộ trình cho từng giai đoạn về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, làm cơ sở chủ động điều hành và thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập. Hoàn thiện chính sách tranh thủ đầu tư, viện trợ phát triển, xúc tiến thương mại, du lịch và hợp tác lao động với từng đối tác.
Ba là, tập trung nỗ lực tạo chuyển biến cơ bản trong công tác ngoại giao phục vụ kinh tế. Trọng tâm là triển khai các nhiệm vụ đã được quy định trong Nghị định 08/CP, tập trung vào công tác thông tin và dự báo vĩ mô, góp phần tạo môi trường và khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, thúc đẩy các mặt hoạt động kinh tế đối ngoại, hỗ trợ có hiệu quả các yêu cầu của doanh nghiệp, địa phương trong kinh tế đối ngoại.
Bốn là, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các tổ chức quốc tế và khu vực, trước hết với ASEAN, APEC, ASEM, Liên hợp quốc, WB, IMF, ADB và với các tổ chức phi chính phủ, kết hợp hiệu quả của quan hệ song phương với quan hệ đa phương, đẩy mạnh hoạt động và từng bước nâng cao vai trò của Việt Nam trong các tổ chức này. Tích cực tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC 14 tại Hà Nội năm 2006.
Năm là, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của ngoại giao nhân dân và các hình thức ngoại giao phong phú khác cùng với ngoại giao của Đảng và Nhà nước tạo thành sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại.
Sáu là, tiếp tục coi trọng và đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, mà trọng tâm là triển khai thực hiện Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị; sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, tham gia xây dựng đất nước; chú trọng hơn nữa công tác bảo hộ công dân; triển khai nhiều biện pháp tích cực thực hiện chủ trương hòa hợp dân tộc, hướng tới tương lai.
Trong thời kỳ đổi mới, việc quán triệt và triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế theo phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển" đã đem lại cho Việt Nam một tầm vóc mới và một vị thế mới. Chưa bao giờ sự giao lưu giữa Việt Nam với các nước ở khắp các châu lục, ở tất cả các cấp và trên tất cả các lĩnh vực lại diễn ra năng động như từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay. Sự tổng hòa các mối quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng, khu vực, nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị, bạn gần, bạn xa, kết hợp giữa đa dạng hóa với xác lập và củng cố quan hệ với các đối tác tin cậy, các thị trường chiến lược, đã tạo cho Việt Nam thế đối ngoại cân bằng, ổn định và vững chắc, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và bảo vệ đất nước.
Những thành tích đối ngoại to lớn trên đây đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định bản lĩnh lãnh đạo của Đảng ta và khả năng của đất nước ta vững vàng vượt qua mọi thử thách của thời gian và thời cuộc để vươn tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những thành tích đối ngoại ấy cùng với thành tựu phát triển chung của đất nước đã tạo tiền đề thuận lợi và cần thiết để chúng ta phát huy hơn nữa vai trò của đối ngoại trong bối cảnh tình hình mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng thêm thế và lực cho đất nước để nắm bắt vận hội mới, đồng thời đối phó với thách thức mới.
______________________________________________________________________________
(1) "Báo cáo chính trị tại Đại hội VI", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 104
(2) Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr 324
(3) Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Sđd , tr 325
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 147
(5) Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr 326
(6), "Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII", Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 465
Quay lại Đầu trang In trang Gửi mail |