Tuyên bố Bắc Kinh về Phát triển Bền vững
1. Chúng tôi, Người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ 16 nước Châu Á, 27 nước thành viên Liên minh Châu Âu, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu và Tổng thư ký ASEAN, có mặt tại Bắc Kinh ngày 24 và 25/10/2008 để dự Hội nghị Cấp cao Á-Âu (ASEM) lần thứ 7.
2. Nhận thức được những thách thức do dân số thế giới gia tăng, suy thoái môi trường, suy giảm nguồn lực nhanh chóng và suy yếu khả năng chịu tải của hệ sinh thái ngày càng trở nên rõ ràng hơn ở nhiều nước và khu vực, và thấy rằng bảo đảm phát triển bền vững vừa là thử thách nghiêm trọng đồng thời là nhiệm vụ cấp bách đối với nhân loại. Các thành viên ASEM sẵn sàng tăng cường hợp tác và nỗ lực hướng tới giải pháp cùng có lợi nhằm đóng góp tích cực cho phát triển bền vững;
3. Khẳng định lại rằng phát triển bền vững sẽ quyết định hiện tại và tương lai của nhân loại, sự sinh tồn và phát triển của mọi quốc gia, hòa bình và thịnh vượng trên thế giới; đồng thời tất cả các quốc gia, bên cạnh việc phát triển kinh tế, cần nỗ lực duy trì chất lượng môi trường và quan tâm đầy đủ đến nhu cầu của các thế hệ tương lai;
4. Nhận thức rằng phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường là ba trụ cột trong phát triển bền vững liên quan chặt chẽ và bổ trợ lẫn nhau, và nhấn mạnh rằng các Mục tiêu Phát triển được Quốc tế thống nhất (IADGs), đặc biệt các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và gắn kết xã hội là các vấn đề cần được đặc biệt quan tâm để đạt tới phát triển bền vững;
5. Khẳng định lại sự cần thiết phải thực hiện đầy đủ các mục tiêu, nguyên tắc và kế hoạch hành động đưa ra trong Tuyên bố Ri-ô và Chương trình Nghị sự 21 được thông qua tại Hội nghị Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát triển, Đồng thuận Mông-tơ-rây trong Hội nghị Quốc tế về Tài chính cho Phát triển, Lộ trình Ba-li thông qua tại Hội nghị lần thứ 13 (COP 13) của Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC), cũng như Kế hoạch Triển khai Giô-han-nét-xbớc thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững;
6. Nhớ lại Hội nghị ASEM 6 đã xác định phát triển bền vững, đặc biệt là các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, biến đổi khí hậu, môi trường và năng lượng là các trọng tâm chính sách và hành động của ASEM trong thập niên tới;
Quyết định ra Tuyên bố sau:
I. Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
7. Chúng tôi tái khẳng định các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) và mục tiêu Giô-han-nét-xbớc là nền tảng của hợp tác quốc tế cho phát triển bền vững, hoan nghênh nỗ lực hiện nay của các thành viên ASEM để đạt được các MDGs và IADGs và thừa nhận các thách thức gay gắt gặp phải trong quá trình đạt MDGs như kế hoạch đề ra trên phạm vi toàn cầu.
8. Với quan ngại rằng giá lương thực tăng cao đã ảnh hưởng tới nỗ lực giảm nghèo toàn cầu và cản trở tiến trình xóa đói giảm nghèo, chúng tôi kêu gọi cần có các giải pháp phối hợp đầy đủ với chiến lược toàn diện để giải quyết vấn đề này một cách tổng thể từ ngắn hạn đến trung hạn và dài hạn, và thông qua thực tế hợp tác để ổn định các thị trường hàng hóa. Chúng tôi kêu gọi tăng cường hợp tác phát triển hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, thuận lợi hóa thương mại và chuyển giao công nghệ. Chúng tôi kêu gọi tất cả các bên liên quan tăng sản lượng nông nghiệp và sản xuất ngũ cốc bền vững, giảm các hình thức trợ giá nông nghiệp bóp méo thị trường và mở rộng đầu tư vào nông nghiệp và phát triển nông thôn, tạo nhiều cơ hội việc làm hơn và tăng thu nhập cho những người có thu nhập thấp nhằm giảm nghèo đói và đảm bảo an ninh lương thực một cách hiệu quả.
9. Chúng tôi hiểu rằng con đường đạt tới IADGs, cụ thể là các MDGs, còn dài. Chúng tôi hoan nghênh nội dung thảo luận thực chất và sự nhất trí đã đạt được tại phiên họp Cấp cao của Liên Hợp Quốc về các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ vào tháng 9, và đề nghị các đối tác thể hiện quyết tâm chính trị cao hơn và có hành động cụ thể để nghiêm túc thực hiện các cam kết của mình nhằm thúc đẩy việc đạt được các Mục tiêu này như đã định trên phạm vi toàn cầu.
10. Chúng tôi tái khẳng định cam kết thiết lập một quan hệ đối tác toàn cầu thực chất vì hợp tác phát triển và nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Liên hợp quốc trong điều phối hợp tác phát triển quốc tế và xây dựng đồng thuận quốc tế về các vấn đề phát triển bền vững. Chúng tôi nhận thấy rằng để đạt IADGs, đặc biệt là các MDGs một cách kịp thời cần có sự tham gia rộng rãi của tất cả các khu vực và cần khuyến khích xã hội dân sự và khu vực doanh nghiệp đóng vai trò tích cực trong nỗ lực chung này. Theo đó, chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của phương pháp tiếp cận đối với phát triển từ góc độ giới. Chúng tôi nhấn mạnh phát triển trước hết là trách nhiệm của mỗi quốc gia, được hỗ trợ bởi một môi trường quốc tế thuận lợi cho phát triển. Chúng tôi kêu gọi các nước phát triển tăng thêm nguồn lực cho phát triển và tuân thủ cam kết đạt được mục tiêu tổng thể đến năm 2015 dành 0.7% tổng thu nhập quốc nội (GNI) vào hỗ trợ phát triển chính thức và nâng cao hiệu quả sử dụng viện trợ. Chúng tôi nhấn mạnh ASEM là sự bổ sung quan trọng đối với các nỗ lực toàn cầu nhằm tăng cường quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển bao gồm thông qua các sáng kiến đa ngành và liên chính phủ.
11. Chúng tôi nhấn mạnh vấn đề tài chính cho phát triển là một yếu tố quan trọng để đạt được các MDGs và cộng đồng quốc tế cần nhanh chóng thực hiện Đồng thuận Mông-tơ-rây. Chúng tôi mong rằng Hội thảo Quốc tế về Tài chính cho Phát triển sắp tổ chức tại Đô-ha, Qua-ta 2008 sẽ đạt những tiến bộ thực chất trong hợp tác quốc tế về vấn đề tài chính cho phát triển.
II. Biến đổi Khí hậu và An ninh Năng lượng
12. Chúng tôi tái khẳng định rằng vấn đề biến đổi khí hậu cần được giải quyết trong khuôn khổ phát triển bền vững. Chúng tôi tái khẳng định rằng để đạt được phát triển bền vững, cần có biện pháp đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu phù hợp với mục tiêu cơ bản của Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC). Chúng tôi nhận thức được tầm quan trọng của những báo cáo đánh giá của Hội nghị liên Chính phủ về Biến đổi Khí hậu và đặc biệt là Báo cáo Đánh giá lần thứ tư.
13. Chúng tôi nhấn mạnh rằng Công ước Khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) và Nghị định thư Kyoto là các kênh chủ đạo cho thương lượng và hợp tác quốc tế về biến đổi khí hậu, khẳng định lại cam kết đối với các mục tiêu, tôn chỉ mục đích và nguyên tắc của Công ước Khung và Nghị định thư Kyoto, đặc biệt là nguyên tắc chung nhưng có sự khác biệt về trách nhiệm và năng lực liên quan. Chúng tôi ghi nhận các thành viên ASEM chia sẻ một cam kết chung nhằm tìm ra một giải pháp đa phương dài hạn đối với biến đổi khí hậu trong khuôn khổ Công ước Khung và Nghị định thư Ky-ô-tô. Chúng tôi hoan nghênh các quyết định của Kế hoạch Hành động Ba-li, bao gồm tất cả yếu tố để đạt được một kết quả to lớn, hiệu quả và toàn diện đã được thống nhất đối với hoạt động hợp tác dài hạn từ nay đến sau năm 2012 nhằm tăng cường hợp tác quốc tế nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. Chúng tôi cam kết hoàn tất quá trình đàm phán vào năm 2009.
14. Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng phó với biến đổi khí hậu, chúng tôi khẳng định các nước phát triển cần tiếp tục thể hiện vai trò đầu tầu, và thực hiện các cam kết giảm nhẹ hậu quả phù hợp với từng quốc gia theo hướng có thể đo được, báo cáo được và xác minh được, bao gồm các mục tiêu giảm thiểu và hạn chế khí thải được định lượng, các biện pháp trên các lĩnh vực phù hợp được xem như công cụ để thực thi các mục tiêu nói trên, đồng thời hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển sẽ tiến hành các biện pháp giảm thiểu phù hợp với từng quốc gia, trong bối cảnh phát triển bền vững được hỗ trợ bởi công nghệ, tài chính và xây dựng năng lực, theo cách có thể đo được, báo cáo được và xác minh được, nhằm thay đổi cách thức kinh doanh gây ra khí thải thông thường .
15. Chúng tôi nhấn mạnh nhu cầu cần có một tầm nhìn chung đối với hành động hợp tác dài hạn, bao gồm mục tiêu toàn cầu dài hạn về giảm phát thải toàn cầu, nhằm đạt được mục tiêu cơ bản của Công ước và thúc đẩy thực hiện hiệu quả và bền vững hoàn toàn mục tiêu này, phù hợp với điều khoản và nguyên tắc của Công ước, đặc biệt là nguyên tắc chung nhưng có sự khác biệt về trách nhiệm và năng lực liên quan, tính đến cả các điều kiện kinh tế xã hội và các nhân tố liên quan khác. Chúng tôi nhấn mạnh thêm rằng để tầm nhìn chung này trở nên đáng tin cậy các nước phát triển cần phải đi đầu trong việc đưa ra cam kết các mục tiêu giảm thải ràng buộc về mặt pháp luật. Chúng tôi kêu gọi cộng đồng quốc tế xem xét các mục tiêu lớn ghi Bản báo cáo đánh giá lần thứ 4 của Hội nghị liên Chính phủ về biến đổi khí hậu.
16. Chúng tôi nhận thấy các biện pháp giảm phát thải do chặt phá rừng và rừng xuống cấp, thúc đẩy hấp thụ các-bon thông qua trồng rừng và tái tạo rừng, quản lý rừng một cách bền vững, sử dụng đất hợp lý, kết hợp với các hình thức sản xuất và tiêu dùng bền vững và các biện pháp thích hợp chống lại việc chặt phá rừng và buôn bán gỗ lậu có thể góp phần giảm bớt lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính bảo vệ đa dạng sinh thái. Chúng tôi khẳng định lại việc ủng hộ các quyết định đưa ra tại Ba-li nhằm đạt được các chính sách và biện pháp khuyến khích để giảm phát thải do chặt phá rừng và rừng xuống cấp, và vai trò bảo tồn, quản lý rừng bền vững và tăng cường rừng hấp thụ các-bon ở các nước đang phát triển.
17. Nhận thấy việc thích ứng với biến đổi khí hậu là yếu tố sống còn nhằm đối phó với các tác động tiêu cực, không thể tránh khỏi của biến đổi khí hậu đối với mọi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, những nước kém phát triển nhất (LDC) và các quốc đảo nhỏ đang phát triển, chúng tôi nhấn mạnh rằng các đối tác ASEM cần hợp tác trên cơ sở cam kết UNFCCC nhằm tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của các nước đang phát triển, bao gồm việc đánh giá khả năng bị tác động, xác định ưu tiên và triển khai các hành động thích ứng, các đánh giá nhu cầu tài chính, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng năng lực, quản lý rủi ro và các chiến lược liên quan, lồng ghép vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chính sách và chiến lược phát triển.
18. Chúng tôi khẳng định vai trò then chốt của công nghệ và nhu cầu hợp tác kỹ thuật và chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển. Chúng tôi sẽ cùng hợp tác kỹ thuật trong các lĩnh vực kinh tế cụ thể, tăng cường trao đổi thông tin về giảm thiếu tác động và phân tích hiệu quả mang tính khu vực, xác minh nhu cầu kỹ thuật quốc gia và hợp tác quốc tế hướng tới hành động tự nguyện, và cân nhắc vai trò của các chính sách hợp tác ngành và lĩnh vực phù hợp với Công Ước này. Chúng tôi kêu gọi tăng cường các hoạt động phát triển và chuyển giao công nghệ nhằm hỗ trợ việc giảm thải và thích ứng với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh việc triển khai phát triển, triển khai, phổ biến và chuyển giao công nghệ giảm thải và thích ứng với biến đổi khí hậu phù hợp. Chúng tôi hoan nghênh hợp tác nghiên cứu, phát triển, giới thiệu và triển khai các công nghệ sạch mới và cải tiến hiện nay bao gồm các giải pháp các bên cùng có lợi. Chúng tôi nhấn mạnh rằng hợp tác và chuyển giao công nghệ cho các nước đang phát triển là một điều kiện bảo trợ quan trọng cho các nước này đối phó với biến đổi khí hậu.
19. Ghi nhận rằng đối phó với biến đổi khí hậu đòi hỏi huy động nhiều hơn các nguồn tài chính công và tư, cả trong nước và và quốc tế, chúng tôi ủng hộ các nỗ lực tăng hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển. Chúng tôi cũng ủng hộ việc thiết lập các biện pháp giúp đỡ các nước đang phát triển hoàn thành các chiến lược và hành động thích ứng giảm thiểu tác động trong nước, và tăng cường đầu tư, tài trợ trong lĩnh vực nhà nước và tư nhân
Với quan ngại sâu sắc rằng điều kiện khí hậu khắc nghiệt do biến đổi khí hậu gây nên đã gây ra những mất mát to lớn về người và tài sản cho các thành viên ASEM, chúng tôi kêu gọi tất cả các bên triển khai các quyết định ASEM 6 đề ra thông qua củng cố hệ thống trao đổi thông tin về quản lý thiên tai và xem xét khả năng thiết lập các cơ chế cảnh báo sớm.
20. Với quan ngại sâu sắc rằng điều kiện khí hậu khắc nghiệt do biến đổi khí hậu gây nên đã gây ra những mất mát to lớn về người và tài sản cho các thành viên ASEM, chúng tôi kêu gọi tất cả các bên triển khai các quyết định ASEM 6 đề ra thông qua củng cố hệ thống trao đổi thông tin về quản lý thiên tai và xem xét khả năng thiết lập các cơ chế cảnh báo sớm.
21. Chúng tôi nhấn mạnh nhu cầu hành động kiên quyết và khẩn trương tại Hội nghị Biến đổi khí hậu tại Pốt-xnan, Ba Lan năm 2008 và hợp tác để đạt được kết quả to lớn, toàn diện và hiệu quả trong các hoạt động hợp tác dài hạn từ nay cho đến thời điểm sau 2012 tại Hội nghị Biến đổi khí hậu dự kiến tổ chức tại Cô-pen-ha-gen, Đan Mạch vào cuối năm 2009.
22. Chúng tôi ghi nhận rằng biến đổi khí hậu có quan hệ chặt chẽ với năng lượng và cần có biện pháp tổng hợp, trong đó lưu ý đến các vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng, tăng cường kết hợp năng lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng. Chúng tôi ủng hộ việc tìm kiếm thêm các hướng phát triển năng lượng ít các-bon bền vững và an toàn và đưa yếu tố này vào chính sách phát triển bền vững.
23. Chúng tôi khẳng định lại rằng an ninh năng lượng có quan hệ chặt chẽ với sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế thế giới và sự phát triển bền vững của mọi quốc gia, và nhấn mạnh mỗi quốc gia đều có quyền thúc đẩy phát triển bằng cách tận dụng triệt để năng lượng và các nguồn tài nguyên một cách bền vững, nhưng vẫn tính đến khả năng chịu đựng của hệ sinh thái và bảo vệ môi trường khu vực. Chúng tôi khuyến khích các đối tác ASEM củng cố hợp tác phát triển và sử dụng năng lượng cùng có lợi và góp phần vào việc đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu. Chúng tôi hoan nghênh việc Hội nghị Bộ trưởng ASEM về An ninh Năng lượng lần thứ nhất sẽ được tổ chức tại Brúc-xen vào nửa đầu năm 2009. Chúng tôi hoan nghênh các biện pháp triển khai Hội nghị Thượng đỉnh Giê-đa về An ninh Năng lượng tại Luân-đôn tháng 12 năm 2008.
24. Chúng tôi kêu gọi đa dạng hoá, duy trì ổn định và bảo đảm an ninh cho các nguồn cung năng lượng.
25. Chúng tôi kêu gọi tất cả các thành viên nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm năng lượng, tối ưu hóa cơ cấu tiêu dùng năng lượng, phát triển và sử dụng năng lượng tái sinh và năng lượng sạch, bao gồm nhiên liệu sinh học bền vững mà không ảnh hưởng đến an ninh lương thực hoặc gây ra tác hại cho môi trường, và đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến có lợi cho môi trường cho các nước đang phát triển.
26. Chúng tôi nhấn mạnh nhu cầu kết hợp hợp tác năng lượng với xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường để giúp các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất (LDCs) tăng cường phát triển cơ sở hạ tầng, giảm nghèo và đạt được phát triển bền vững bằng cách tăng thêm sự tiếp cận và sử dụng năng lượng của các nước này. Chúng tôi thừa nhận tầm quan trọng của việc tăng cường vai trò của tổ chức UNEP trong bảo vệ môi trường.
27. Chia sẻ những quan ngại sâu sắc về biến động của giá dầu và mức giá dầu hiện tại, chúng tôi nhấn mạnh rằng tất các đối tác cần tiến hành các nỗ lực chung để giảm thiểu biến động và ổn định giá dầu.
III. Gắn kết xã hội
28. Nhận thức rằng một xã hội bình đẳng và gắn kết phải kết hợp được tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và các quan tâm về môi trường thông qua các chiến lược và chính sách tổng hợp, chúng tôi nhấn mạnh rằng phát triển bền vững và gắn kết xã hội có tác động hỗ trợ lẫn nhau, và chỉ thông qua phát triển bền vững thì sự thịnh vượng của xã hội mới được tăng cường, đời sống của người dân mới được cải thiện, công bằng và trật tự xã hội mới được bảo đảm.
29. Chúng tôi nhấn mạnh rằng các đối tác ASEM có chung một mối quan tâm là củng cố gắn kết xã hội thông qua đối thoại và hợp tác chặt chẽ, nhờ đó có thể đóng góp hiệu quả cho khía cạnh xã hội bền vững của toàn cầu hoá. Chúng tôi ghi nhận rằng các thành viên đang phải đối mặt với các thách thức về thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, duy trì trật tự xã hội, cân bằng giữa hội nhập và đa dạng văn hóa, tạo cơ hội việc làm, đảm bào dịch vụ chăm sóc sức khỏe và an sinh xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá và nhất trí đẩy mạnh hợp tác để đảm bảo lợi ích cho tất cả các bên trong quá trình toàn cầu hoá, và phối hợp thúc đẩy gắn kết xã hội. Chúng tôi hoan nghênh kết quả của các Hội nghị Bộ trưởng Lao động và Việc làm ASEM tổ chức tại Đức và In-đô-nê-xia cũng như kết quả của Diễn đàn các Đối tác Xã hội ASEM lần thứ nhất tại Brúc-xel.
30. Nhận thức tầm quan trọng của công lý xã hội đối với gắn kết xã hội, chúng tôi nhấn mạnh cần bảo đảm phổ cập giáo dục cho người dân. Chúng tôi nhấn mạnh rằng cần phải nỗ lực hơn nữa để đầu tư vào nguồn vốn con người và tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực con người, cung cấp giáo dục cơ bản, mở rộng phạm vi và chất lượng giáo dục phổ thông và cao học, thúc đẩy giáo dục nghề nghiệp và hướng nghiệp và cải thiện việc học tập suốt đời cho tất cả mọi người.
31. Chúng tôi nhận thấy rằng việc thúc đẩy toàn dụng hiệu quả nhân công và các công việc có chất lượng là yếu tố then chốt để đảm bảo và nâng cao nguồn sống cho người dân, thực hiện gắn kết xã hội một cách hiệu quả và đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs). Chúng tôi ghi nhận rằng chính sách xã hội và việc làm thích hợp, việc quản lý tốt cũng như việc tôn trọng và thực thi đầy đủ các tiêu chuẩn lao động cơ bản được ghi trong Tuyên bố ILO năm 1998 về Nguyên tắc và Quyền cơ bản tại nơi làm việc và Tuyên bố ILO năm 2008 về Công bằng Xã hội vì Toàn cầu hóa công bằng đang đóng góp một cách tích cực cho việc tạo lập xã hội gắn kết hơn và phát triển kinh tế cho mọi thành phần, tạo cơ hội cho tất cả mọi người, kể cả những nhóm dễ bị tổn thương, có việc làm tốt, điều kiện sống tốt hơn, được tiếp cận với dịch vụ y tế, xã hội và hệ thống an sinh xã hội cơ bản, cũng như bảo vệ sức khỏe và an toàn lao động. Chúng tôi nhấn mạnh rằng hệ thống phân bổ thu nhập hợp lý có ý nghĩa quan trọng đối với chất lượng xã hội. Chúng tôi thừa nhận cần có hệ thống bảo về xã hội để bảo đảm an sinh xã hội và hỗ trợ việc tham gia thị trường lao động. Chúng tôi nhấn mạnh rằng việc đạt được hệ thống phân phối thu nhập công bằng cũng góp phần bảo đảm gắn kết xã hội. Chúng tôi hoan nghênh việc nâng cao năng lực của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) nhằm thúc đẩy Chương trình Nghị sự Việc làm Tốt và Tuyên bố của ILO về Công bằng xã hội vì Toàn cầu hoá công bằng. Chúng tôi nhấn mạnh vai trò nòng cốt mà các mối quan hệ nghiệp đoàn và đối thoại xã hội hiệu quả dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau và mục tiêu chung có thể đóng góp cho phát triển bền vững và ứng phó với thay đổi. Chúng tôi khuyến khích các thành viên ASEM tăng cường hợp tác cùng có lợi trong lĩnh vực lao động, việc làm, cũng như các lĩnh vực xã hội khác. Chúng tôi hoan nghênh và ủng hộ các hoạt động và dự án được khuyến nghị trong Tuyên bố Ba-li về Việc làm nhiều và tốt hơn - Hợp tác và Quan hệ chiến lược thúc đẩy việc làm bền vững và thị trường lao động tòan cầu vì lợi ích của các bên, đã được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng ASEM về Lao động và Việc làm lần thứ hai tổ chức tại In-đô-nê-xia tháng 10 năm 2008.
32. Chúng tôi ghi nhận rằng cần đảm bảo gắn kết xã hội và giảm thiểu mất cân đối về kinh tế và xã hội, trong nội bộ và giữa các nước với nhau, xây dựng hệ thống an sinh xã hội, bảo vệ người tiêu dùng và bảo vệ xã hội hợp lý, đầy đủ, bền vững ở cả nông thôn và thành thị. Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của tính tự chủ và hợp tác lẫn nhau giữa các cộng đồng địa phương.
33. Chúng tôi nhận thức rằng di cư quốc tế đem lại lợi ích chung, giúp các thành viên ASEM giải quyết các thách thức về dân số và thách thức trên thị trường lao động, góp phần vào việc bảo đảm phát triển bền vững, đặc biệt tại các nước đang phát triển. Nhận thức rằng việc hội nhập bộ phận dân di cư là một yếu tố quan trọng để có được gắn kết xã hội, chúng tôi kêu gọi các thành viên ASEM tạo lập một cách tiếp cận toàn diện về vấn đề di cư, bao gồm thúc đẩy di cư hợp pháp, giải quyết hiệu quả vấn đề di cư bất hợp pháp, cũng như mối liên hệ giữa di cư và phát triển. Cách tiếp cận này cũng cần xem xét đến những khả năng phát triển hợp tác lẫn nhau trong lĩnh vực di cư quốc tế thông qua đối thoại chính sách, hợp tác phát triển và hướng tới quan hệ đối tác trong lĩnh vực di cư. Chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của Diễn đàn Toàn cầu lần thức hai về Di cư và Phát triển tổ chức tại Ma-ni-la, Phi-lip-pin tháng 10 năm 2008 trong việc hỗ trợ cho việc quản lý di cư một cách hiệu quả.
34. Nhận thức rằng dân số đang già đi đặt ra một thách thức nghiêm trọng đối với cả các nước phát triển và đang phát triển, chúng tôi nhấn mạnh rằng các mục tiêu, mục đích và cam kết được đề ra trong Chương trình Hành động Quốc tế Man-đờ-rít về Lão hoá, 2002 và các chiến lược khu vực có liên quan cần phải được các đối tác ASEM thực hiện đúng thời hạn.
35. Nhận thức rằng sự hoà hợp giữa con người với thiên nhiên là một phần của hoà hợp xã hội, văn minh sinh thái là nền tảng quan trọng của gắn kết xã hội và các thành phố sinh thái thể hiện xu thế thân thiện với môi trường và văn hoá bảo tồn các nguồn lực, chúng tôi hoan nghênh sáng kiến ASEM về Hệ thống Thành phố sinh thái do Trung Quốc đưa ra và khuyến khích các đối tác ASEM đóng vai trò tích cực trong sáng kiến này.
36. Chúng tôi ghi nhận rằng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp liên quan tới nhiều vấn đề, trong đó có bảo vệ môi trường, lao động, nhân quyền, đánh giá rủi ro, quản trị doanh nghiệp và phát triển cộng đồng và do vậy khuyến khích tất cả các thành viên ASEM tăng cường trách nhiệm xã hội trên phương diện quốc gia và quốc tế. Chúng tôi khuyến khích các doanh nghiệp tự nguyện thực hiện trách nhiệm xã hội theo luật pháp cũng như các chuẩn mực quốc gia và quốc tế, và đóng góp vào việc thúc đẩy một môi trường kinh doanh thịnh vượng, hài hoà, lành mạnh và có trách nhiệm với xã hội.
KẾT LUẬN
37. Chúng tôi khẳng định sẽ tuân thủ các mục tiêu và nguyên tắc phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc và sự đồng thuận đạt được trên lĩnh vực này trong khuôn khổ ASEM. Chúng tôi hoan nghênh các sáng kiến hiện có của ASEM về phát triển bền vững và khuyến khích các đối tác của ASEM tiến hành các hoạt động để thực hiện tuyên bố này./.