Thông tin cơ bản về cộng đồng Pháp ngữ và quan hệ với Việt Nam

(Organisation Internationale de la Francophonie – OIF) Trang web chính thức: www.francophonie.org

I . QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Khái niệm về Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp xuất hiện lần đầu tiên vào cuối thế kỷ 19, dưới ngòi bút của một nhà địa lý người Pháp - O. Reclus. Lúc đó khái niệm chỉ được hiểu là bao hàm toàn bộ các dân tộc, các vùng nói tiếng Pháp trên thế giới. Mãi đến những năm 60 của thế kỷ 20, cùng với phong trào phi thực dân hóa, sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và cùng với  xu thế liên kết khu vực, quan hệ giữa các nước thuộc địa nói tiếng Pháp mới giành được độc lập với chính quốc và giữa các nước này với nhau có những biến đổi sâu sắc.

Trong bối cảnh đó, bắt đầu từ sáng kiến tháng 3/1962 của Tổng thống Xê-nê-gan, Lê-ô-pôn Xê-đa Xen-gho, đã dấy lên một phong trào vận động cho sự ra đời của một Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp với mục đích phát triển các mối quan hệ văn hoá, khoa học và kỹ thuật giữa các nước này với nhau. Hàng loạt các tổ chức quốc tế sử dụng tiếng Pháp được thành lập như Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục các nước có sử dụng tiếng Pháp (CONFEMEN, 1960), Hiệp hội các trường đại học sử dụng từng phần hoặc toàn phần tiếng Pháp (AUPELF-UREF, 1961), Liên minh các nghị sĩ nói tiếng Pháp (AIPLF, 1967), Tổ chức hợp tác văn hoá và kỹ thuật (ACCT, 1970)... Tuy nhiên, hợp tác giữa các nước trong các tổ chức này vẫn mang đậm tính chất nghề nghiệp và kỹ thuật, chưa đáp ứng được nguyện vọng của nhiều nước muốn có một tổ chức có tầm vóc chính trị, có vị trí và tiếng nói đáng kể trong quan hệ quốc tế.

Chính vì vậy vào tháng 2/1986, theo sáng kiến của cố Tổng thống Pháp Phờ-răng-xoa Mít-tơ-răng, Hội nghị cấp cao lần thứ nhất của các nước có sử dụng tiếng Pháp  đã được tổ chức tại Pa-ri với sự tham gia của gần 40 vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước có sử dụng tiếng Pháp, đánh dấu sự ra đời chính thức của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp. Tháng 12/1998, Hội nghị Bộ trưởng phụ trách Pháp ngữ lần thứ 12, họp tại Bu-ca-rét (Rumani), đã thông qua tên gọi chính thức của Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp là Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (OIF).

Hiện Cộng đồng Pháp ngữ có tổng cộng 88 thành viên và quan sát viên thuộc 5 châu lục, với khoảng 300 triệu người nói tiếng Pháp trên tổng số khoảng 900 triệu người, chiếm 20% trao đổi thương mại và 13% GDP thế giới. Trong đó, tiếng Pháp là ngôn ngữ chính thức, hoặc duy nhất hoặc cùng với một số ngôn ngữ khác, tại 32 nước và chính quyền thành viên.

1. Các hội nghị cấp cao: 

1.1. Hội nghị cấp cao lần thứ 1 (Pa-ri, tháng 2/1986)

Đại biểu của 41 quốc gia và lãnh thổ (trong đó có 16 Nguyên thủ quốc gia và 11 Thủ tướng) đã tới dự Hội nghị. Hội nghị đã thảo luận tình hình chính trị, kinh tế thế giới và tập trung vào chủ đề hợp tác và phát triển. Các đại biểu nhất trí thiết lập và tăng cường hợp tác giữa các nước cùng sử dụng tiếng Pháp, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, năng lượng, văn hoá, thông tin, khoa học kỹ thuật và ngôn ngữ, nhằm tạo sự đoàn kết giữa các nước trong Cộng đồng và để đối phó tốt hơn với những thách thức mà tình hình thế giới đang đặt ra cho các thành viên Cộng đồng. Hội nghị quyết định thể chế hoá Hội nghị cấp cao, họp hai năm một lần.

Hội nghị cấp cao lần thứ nhất đã kiến tạo cơ sở cho một hình thức hợp tác mới giữa các nước cùng sử dụng tiếng Pháp và đánh dấu một bước ngoặt trong sự hình thành của Cộng đồng Pháp ngữ.

1.2. Hội nghị cấp cao lần thứ 2 (Quê-bếc, tháng 9/1987)

Hội nghị có 42 đoàn đại biểu tham dự, trong đó có 18 Nguyên thủ quốc gia và 12 Thủ tướng.
Tuy có những ý kiến khác nhau, nh¬ưng Hội nghị đã có tiếng nói chung ủng hộ đối thoại và giải trừ quân bị có lợi cho hoà bình thế giới, ủng hộ hợp tác và phát triển, lên án chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi, công nhận quyền tự quyết của nhân dân Palextin, ủng hộ Libăng và nghị quyết của Liên hợp quốc về chiến tranh Iran - Irắk. Nội dung chính của Hội nghị vẫn là vấn đề hợp tác và phát triển. Một chương trình hợp tác gồm trên 100 dự án đã được thông qua với tổng số vốn trên 450 triệu Phờ-răng Pháp nhằm giúp đỡ cho các nước thành viên đang phát triển của Cộng đồng. Hội nghị cũng kêu gọi giảm nợ cho các nước đang phát triển, bảo vệ môi trường và phối hợp hoạt động chống thiên tai. Tại diễn đàn, Canađa đã tuyên bố xoá nợ cho 7 nước nghèo nhất với tổng số tiền là 325 triệu đôla Canađa.

1.3. Hội nghị cấp cao lần 3 (Đác-ka, tháng 5/1998)

Hội nghị có 41 đoàn đại biểu tham dự, trong đó có 17 Nguyên thủ quốc gia, 10 Thủ tướng và Phó Thủ tướng. Ba nước mới tham gia Hội nghị là Camơrun, Cápve và Ghinê xích đạo. Thuỵ Sĩ chuyển từ quan sát viên thành thành viên chính thức.

Tuyên bố chung của Hội nghị khẳng định ý chí tiếp tục đẩy mạnh hợp tác đa phương giữa các nước thành viên Cộng đồng và đa dạng hoá quan hệ quốc tế của các nước này và đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hợp tác giữa các nước đang phát triển với nhau. Một điểm nổi bật tại Hội nghị lần này là Pháp tuyên bố xoá nợ 16 tỷ Phờ-răng Pháp cho 35 nước nghèo nhất ở châu Phi, trong đó có 17 nước là thành viên của Cộng đồng.

1.4. Hội nghị cấp cao lần thứ 4 (Sai-ô, Pa-ri, tháng 11/1991)

Hội nghị có 45 đoàn đại biểu tham dự, trong đó có 21 Nguyên thủ quốc gia và 19 Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng. 3 quan sát viên dự lần đầu là Bungari, Campuchia và Rumani.

Chủ đề chính của Hội nghị là dân chủ và phát triển.

Tuyên bố của Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh vấn đề dân chủ phải dựa trên sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do gắn với phát triển. Hội nghị đã thông qua nhiều nghị quyết về các vấn đề chính trị và kinh tế. Trong lĩnh vực kinh tế, có 10 nghị quyết được thông qua. Hội nghị kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ những cố gắng cải cách kinh tế hiện nay của các nước đang phát triển và giúp đỡ khẩn cấp các nước châu Phi, kêu gọi các nước phát triển thực hiện cam kết dành 0,7% GDP cho viện trợ phát triển. Hội nghị cũng thông qua những phương hướng lớn về hợp tác đa phương, tập trung vào 5 lĩnh vực ưu tiên sau: khoa học, môi trường và phát triển, dân chủ và luật pháp. Trên cơ sở đó, Hội nghị đã thông qua ngân sách hàng năm (quỹ đa phương) là 239,3 triệu Phờ-răng Pháp. Về thể chế của Cộng đồng, Hội nghị đã thông qua nghị quyết về các cơ quan cấp cao nhằm hai mục tiêu là giản đơn hoá và củng cố để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan của Cộng đồng.

1.5. Hội nghị cấp cao lần 5 (Mô-ri-xơ, tháng 10/1993)

Hội nghị có 47 đoàn tham dự, trong đó có 20 Nguyên thủ quốc gia, 15 Thủ tướng và Phó Thủ tướng. Tổng thư ký LHQ là khách mời của Hội nghị.

Chủ đề chính của Hội nghị là thống nhất trong đa dạng. Hội nghị ra một tuyên bố chính trị trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng sống còn của sự đa dạng và đa phương hoá quan hệ quốc tế trong điều kiện quốc tế hiện nay; khẳng định sự đoàn kết của các nước thành viên và cam kết cùng nhau xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho các dân tộc trong Cộng đồng. Tuyên bố cũng khẳng định Cộng đồng Pháp ngữ là cộng đồng của đối thoại, hợp tác và đối tác trong sự tôn trọng tuyệt đối sự đa dạng (bản sắc văn hóa dân tộc) của mình. Ngoài Tuyên bố chung, Hội nghị đã thông qua một loạt các văn kiện khác về tình hình chính trị quốc tế, tình hình kinh tế, tình hình Cộng đồng, hợp tác và vấn đề cải tổ thế chế.

Về thể chế, Hội nghị đã thông qua danh sách 15 uỷ viên Hội đồng thường trực Pháp ngữ, lập Uỷ ban nghiên cứu gồm 11 thành viên nhằm nghiên cứu đưa ra những biện pháp hữu hiệu giúp tăng cường vai trò của Cộng đồng Pháp ngữ trên trường quốc tế. Hội nghị đã nhất trí kết nạp 3 thành viên mới là Campuchia, Bungari và Rumani.

1.6. Hội nghị cấp cao lần thứ 6 (Côtônu, tháng 12/1995)

Đại biểu từ 49 quốc gia và lãnh thổ đã đến dự, trong đó có 20 Nguyên thủ quốc gia và 11 Thủ tư¬ớng. Tổng thư¬ ký LHQ là khách mời của Hội nghị.

Chủ đề chính của Hội nghị là đối thoại, hợp tác và phát triển.

Đặc biệt, Hội nghị lần này đã giải quyết cơ bản việc đề cao vai trò chính trị của Cộng đồng Pháp ngữ thông qua việc tăng cư¬ờng thể chế của Cộng đồng. Hội nghị đã quyết định thành lập chức Tổng thư ký Cộng đồng Pháp ngữ kể từ Hội nghị cấp cao 7. Hội đồng thường trực Pháp ngữ từ 15 thành viên nay được mở rộng ra thành 18 thành viên đại diện cho các khu vực địa lý khác nhau.

1.7. Hội nghị cấp cao lần thứ 7 (Hà Nội, tháng 11/1997)

Tham gia Hội nghị có 50 đoàn đại biểu của các nước thành viên và quan sát viên, trong đó có 20 Tổng thống, 16 Thủ tướng, 1 Thái tử, 3 Phó Thủ tướng, 1 Phó Chủ tịch quốc hội và 48 Bộ trưởng. Mônđavi và Xanhtômát Prinxipơ chuyển từ quy chế thành viên liên kết sang thành viên chính thức. Ba nước Ba Lan, Anbani và Maxêđôni tham gia Hội nghị với tư cách quan sát viên. Ngoài ra, các đại diện của Tổng thư ký LHQ, Phong trào Không liên kết, EU, UNESCO cũng đến tham dự Hội nghị với tư cách khách mời.

Chủ đề chính của Hội nghị là: "Hội nghị cấp cao Hà Nội: tăng cường hợp tác và đoàn kết trong Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp vì hoà bình và phát triển kinh tế - xã hội", gắn với chủ đề phụ: "Phát huy nguồn nhân lực: động lực và đối tượng của sự phát triển".

Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Hà Nội, Kế hoạch hành động Hà Nội và Hiến chương Pháp ngữ sửa đổi, bầu ra Tổng thư ký đầu tiên của Cộng đồng là ông Butrốt Butrốt Gali, cựu Tổng thư ký Liên hợp quốc, và Tổng Giám đốc Cơ quan liên chính phủ Pháp ngữ. Qua đó, HNCC Hà Nội đã làm nổi bật mối quan tâm rộng rãi của Cộng đồng đối với mục tiêu hoà bình, ổn định và ngoại giao phòng ngừa do tình hình xung đột, đối với việc bảo vệ sự đa dạng và bản sắc văn hoá, khẳng định một cách sinh động và nổi bật sự có mặt của Cộng đồng tại châu Á, thúc đẩy Cộng đồng dành nhiều ưu tiên hơn cho hợp tác kinh tế, trên cơ sở đó đảm bảo sự cân bằng giữa 3 lĩnh vực hoạt động của Cộng đồng là chính trị, văn hoá và kinh tế.

1.8. Hội nghị cấp cao lần thứ 8 (Mông-tông, tháng 9/1999)

Hội nghị có 55 đoàn đại biểu tham dự, trong đó 40 đoàn ở cấp Tổng thống và Thủ tướng. Anbani và Maxêđôni chuyển từ qui chế quan sát viên lên thành viên liên kết. Lítva, Xlôveni và Cộng hoà Séc tham gia Hội nghị với tư cách quan sát viên. Vùng Van-đao-xtơ của ý và Tổng thư ký Liên hợp quốc là khách mời của Hội nghị.

Chủ đề chính của Hội nghị lần này là thanh niên, được thể hiện sinh động qua hàng loạt các hoạt động trước và trong Hội nghị và được cụ thể hoá thành một mục lớn trong Tuyên bố và Kế hoạch hành động Mông-tông. Ngoài ra, Hội nghị cũng đã tập trung thảo luận về các vấn đề hoà bình và an ninh, đặc biệt là bảo đảm an ninh cho dân thường và tìm giải pháp chính trị cho các cuộc xung đột và khủng hoảng, về các biện pháp triển khai kết quả của Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính về đầu tư và thương mại tại Mônacô tháng 4/1999 và về việc đánh giá 10 năm hợp tác trên lĩnh vực giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học.

1.9. Hội nghị cấp cao lần thứ 9 (Bây-rút, tháng 10/2002)

Hội nghị có 55 đoàn tham dự, trong đó 40 đoàn ở cấp Nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng. Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc, Tổng Giám đốc UNESCO, Tổng thư ký Liên đoàn ả-rập và Tổng thống Angiêri là khách mời của Hội nghị. Xlôvakia và vùng Van-đao-xtơ của ý được chấp nhận là quan sát viên và khách mời đặc biệt của Hội nghị. Đặc biệt với việc Chủ tịch Trần Đức Lương dẫn đầu đoàn đại biểu nước ta tham dự Hội nghị thì đây là lần đầu tiên Việt Nam tham gia ở cấp Nguyên thủ một Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp được tổ chức ở ngoài Việt Nam.

Hội nghị đã thể hiện mối quan tâm của mình đối với các vấn đề toàn cầu, lên án chủ nghĩa khủng bố, không tán thành sử dụng vũ lực trong bối cảnh một năm sau sự kiện 11/9, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy đa dạng văn hoá, bảo vệ và gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hoá, kêu gọi tăng cường hợp tác Bắc-Nam, Nam-Nam và giúp các nước thành viên hội nhập khu vực và quốc tế.

Đặc biệt, Hội nghị đã nhất trí thông qua một số quyết định nhằm củng cố Cộng đồng, đồng thời tạo tầm nhìn và bước chuyển chiến lược cho các hoạt động hợp tác đa phương về trung và dài hạn. Hội nghị đã xem xét và thông qua Quy chế và thể thức gia nhập Hội nghị cấp cao theo hướng xiết chặt hơn về tiêu chuẩn gia nhập, quyết định kể từ Hội nghị cấp cao 10 U-a-ga-đu-gu Cộng đồng sẽ chuyển sang xây dựng khung chiến lược dài hạn 10 năm và các chương trình hợp tác 4 năm thay vì 2 năm như trước đây.

Hội nghị đã bầu ông Áp-đu Điúp, cựu Tổng thống Xênêgan, làm Tổng thư ký mới của Tổ chức quốc tế Pháp ngữ nhiệm kỳ 2002-2006.

1.10. Hội nghị cấp cao lần thứ 10 (U-a-ga-đu-gu, tháng 11/2004)

Hội nghị có 56 đoàn đại biểu tham dự, trong đó 37 đoàn ở cấp Nguyên thủ và Thủ tướng. Khách mời của Hội nghị gồm có Tổng thống Ni-giê-ri-a trên cương vị Chủ tịch Liên minh châu Phi và Chủ tịch Khối thịnh vượng chung, Tổng thống An-giê-ri, Tổng thống Mô-dăm-bích, Tổng thống Xu-đăng, Tổng Giám đốc Tổ chức nông lương của Liên hợp quốc (FAO), Phó Tổng Giám đốc Quỹ nhi đồng của Liên hợp quốc (UNICEF) và Đặc phái viên của Tổng thư ký Liên hợp quốc (LHQ) tại vùng Hồ lớn, châu Phi. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa dẫn đầu.

Chủ đề của Hội nghị là “Một không gian đoàn kết vì sự phát triển bền vững”. Do vậy, trong thảo luận, các nước nhấn mạnh nhiều đến khoảng cách ngày càng lớn và thậm chí là nguy cơ xuất hiện một “Bức tường” mới ngăn cách các nước giàu với các nước nghèo, kêu gọi Cộng đồng cần tăng cường hơn nữa tình đoàn kết Pháp ngữ vì sự phát triển đồng đều giữa các nước thành viên, đồng thời nhất trí là phải có một cách tiếp cận toàn diện đối với vấn đề phát triển bền vững, quan tâm đến tất cả các mặt tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ môi trường, thúc đẩy dân chủ, Nhà nước pháp quyền và đa dạng văn hóa và ngôn ngữ. Bên cạnh đó, Hội nghị cũng dành thời gian để thảo luận về tình hình chính trị quốc tế, đặc biệt là về Bờ Biển Ngà, Trung Đông, hay những vấn đề quan tâm truyền thống của Cộng đồng như bảo vệ đa dạng văn hóa và ngôn ngữ.

Hội nghị đã thông qua một Khuôn khổ chiến lược 10 năm đề ra những định hướng và mục tiêu chiến lược dài hạn cho hoạt động của Cộng đồng trong 10 năm tới, nhất trí kết nạp Hy Lạp và Công quốc An-đo-ra làm thành viên liên kết và 5 nước là Grudia, Áo, Hung-ga-ri, Croitia và Ác-mê-ni-a làm quan sát viên, nâng tổng số thành viên của Cộng đồng từ 56 lên 63, và chọn Ru-ma-ni là nước đăng cai HNCC11 vào cuối năm 2006.

1.11. Hội nghị cấp cao lần thứ 11 (Bucarest, tháng 09/2006):

Hội nghị có 63 đoàn đại biểu tham dự, trong đó có 53 thành viên và 10 quan sát viên của Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ (OIF). Có  35 đoàn dự ở cấp Nguyên thủ và Thủ tướng. Khách mời của Hội nghị là lãnh đạo của nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như Chủ tịch Uỷ ban châu Âu, Tổng Giám đốc UNESCO.v.v. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa dẫn đầu đã tham dự Hội nghị.

Với chủ đề “Công nghệ thông tin trong giáo dục”, các tham luận của các nước tại Hội nghị hầu hết đều nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục và việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt trong xoá đói giảm nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách số giữa các nước thành viên. Các nước cũng kêu gọi OIF tăng nguồn lực cho các chương trình, dự án hợp tác Bắc-Nam và Nam-Nam nhằm khai thác tiềm năng của CNTT trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, qua đó hỗ trợ các nước thành viên đang phát triển thực hiện tốt các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Ngoài ra, Hội nghị cũng thảo luận về tình hình chính trị quốc tế, tập trung vào các cuộc khủng hoảng, xung đột, nhất là tại các nước thành viên Cộng đồng ở khu vực châu Phi (Cộng hoà Trung phi, Bờ Biển Ngà, CHDC Công-gô, Tô-gô, Mô-ri-ta-ni...) và Trung Đông. Các nước kêu gọi OIF tăng cường phối hợp với LHQ và các tổ chức khu vực hỗ trợ tìm giải pháp cho các cuộc khủng hoảng.

Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Bu-ca-rét đề ra những định hướng chính cho các hoạt động của OIF trong thời gian tới trên nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, ứng dụng CNTT trong giáo dục và hỗ trợ các nước đang gặp khủng hoảng hoặc vừa thoát khỏi khủng hoảng và kết nạp Síp và Gha-na làm thành viên liên kết; chấp thuận Xéc-bi-a, U-crai-na, Mô-dăm-bích làm quan sát viên, nâng tổng số thành viên và quan sát viên của OIF  từ 63 lên 68.

Tại Hội nghị này, ông Ap-đu Đi-úp tiếp tục được bầu làm TTK OIF  nhiệm kỳ thứ hai kéo dài 4 năm (2007-2011). Bên cạnh đó, các nước cũng đã nhất trí chọn Kê-bếc, Ca-na-đa làm nơi đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao lần thứ 12 (cuối 2008).

1.12. Hội nghị cấp cao lần thứ 12 (Kê-bếch, 10/2008)

Hội nghị có 67 đoàn tham dự, trong đó 23 đoàn ở cấp Nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng. Sau Kê-bếch (1987), Mông-tông (1999), đây là lần thứ ba Hội nghị cấp cao Pháp ngữ được tổ chức tại Ca-na-đa. Thái Lan và Lét-tô-ni-a trở thành quan sát viên, đưa tổng số thành viên và quan sát viên của OIF lên 70 Nhà nước và Chính phủ. Hội nghị xác định bốn thách thức chính đối với Pháp ngữ thời gian tới bao gồm các vấn đề dân chủ và Nhà nước Pháp quyền, quản trị kinh tế, môi trường và tiếng Pháp. Đặc biệt, lần đầu tiên tiếng Pháp trở thành một chủ đề bàn luận chính của Hội nghị. Lãnh đạo các nước Pháp ngữ đã yêu cầu Tổng thư ký

1.13. Hội nghị cấp cao lần thứ 13 (Mông-thơ, 10/2010)

Hội nghị có 73 đoàn tham dự, trong đó 27 đoàn ở cấp Nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng. Năm thành viên mới của Pháp ngữ bao gồm: Bosnia-Herzegovine, Các Tiểu Vương quốc Ả-rập thống nhất, Estonie, Montenegro và Cộng hòa Dominique. Tại Hội nghị này, ông Abdou Diouf được tái cử làm Tổng thư ký Pháp ngữ nhiệm kỳ thứ ba. Hội nghị đã thông qua một số quyết định quan trọng liên quan đến tiếng Pháp, trong đó có việc tổ chức tại Kê-bếch vào năm 2012 một “Diễn đàn quốc tế về tiếng Pháp”, đồng thời bên lề Hội nghị, Li Băng, Saint-lucia và Seychelles đã ký với OIF một “Chương trình ngôn ngữ tổng thế” nhằm tăng cường tiếng Pháp tại các nước này. Cũng tại Hội nghị lần này, những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các thành viên Pháp ngữ đã tái khẳng định một cách rõ ràng vai trò của Pháp ngữ như là một chủ thể của quan hệ quốc tế và vị trí của khối trong quản trị toàn cầu.

1.14. Hội nghị cấp cao lần thứ 14 (Kinshasa, 10/2012)

Hội nghị có 65 đoàn tham dự, trong đó 28 đoàn ở cấp Nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng. Armenia trở thành thành viên chính thức của OIF, Qatar trở thành thành viên liên kết, trong khi đó Uruguay trở thành quan sát viên, nâng số thành viên của OIF lên 77 Nhà nước và Chính phủ. Hội nghị đã thông qua Chính sách quảng bá tiếng Pháp toàn diện, Chiến lược Pháp ngữ số và Các thành tố của quá trình Pháp ngữ về phát triển hợp tác ba bên; đồng thời đề ra mục tiêu thông qua một Chiến lược kinh tế Pháp ngữ tại Hội nghị cấp cao năm 2014 tại Đa-ka (Xê-nê-gan).

1.15. Hội nghị cấp cao lần thứ 15 (Dakar, 11/2014)

Hội nghị có 77 đoàn tham dự, trong đó 28 đoàn cấp Nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng thành viên không chính thức. Hội nghị đã bầu bà Michaëlle Jean (Mi-sa-en Giăng) làm Tổng Thư ký mới của Pháp ngữ thay ông Adbou Diouf (Áp-đu Đi-úp) hết nhiệm kỳ; kết nạp Mexico, Costa Rica và Kosovo làm quan sát viên, nâng tổng số thành viên của OIF lên 80 Nhà nước và Chính phủ. Hội nghị cấp cao của Tổ chức pháp ngữ lần thứ 15 này có chủ đề “Phụ nữ và thanh niên trong Pháp ngữ: động lực của hòa bình, chủ thể của phát triển”, đã thông qua nhiều văn bản quan trọng mang tính định hướng cho các hoạt động của Cộng đồng Pháp ngữ trong thời gian tới, từ các lĩnh vực hòa bình, an ninh, đa dạng ngôn ngữ và văn hóa, giáo dục, đến hợp tác kinh tế, phát triển bền vững, như Tuyên bố Dakar, Khung chiến lược hợp tác Pháp ngữ giai đoạn 2015-2022, Chiến lược thanh niên Pháp ngữ. Đặc biệt, Hội nghị đã thông qua Chiến lược kinh tế Pháp ngữ, tạo cơ sở cho các hoạt động thúc đẩy hợp tác kinh tế trong không gian Pháp ngữ thời gian tới.

1.16. Hội nghị cấp cao lần thứ 16 (Antananarivo, 11/2016)

Hội nghị có 80 đoàn tham dự, trong đó có 28 đoàn cấp Nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng. Tân Calédonie (Pháp) đã trở thành thành viên liên kết và Argentina, Hàn Quốc và Ontario (Canada) trở thành quan sát làm quan sát viên, nâng tổng số thành viên và quan sát viên OIF từ 80 lên 84 Nhà nước và Chính phủ. Hội nghị đã thông qua Tuyên bố Antananarivo và 13 nghị quyết, đề ra các biện pháp định hướng cho các hoạt động của Cộng đồng Pháp ngữ trong thời gian tới trên các lĩnh vực hòa bình, an ninh, chống khủng bố, đa dạng ngôn ngữ và văn hóa, giáo dục, hợp tác kinh tế, phát triển bền vững, thúc đẩy đa dạng ngôn ngữ và văn hóa, y tế, năng lượng...

1.17. Hội nghị cấp cao lần thứ 17 (Erevan, 11/2018)

Hội nghị có 84 đoàn tham dự, trong đóng có 41 đoàn ở cấp Nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng. Hội nghị đã bầu bà Louise Mushikiwabo, Bộ trưởng Ngoại giao Rwanda, làm Tổng Thư ký mới của OIF, thay bà Michaëlle Jean hết nhiệm kỳ, đồng thời thông qua quyết định kết nạp Ireland, Gambia, Malta, bang Louisianna (Mỹ) làm quan sát viên, nâng tổng số thành viên của OIF lên 88 Nhà nước và chính phủ Hội nghị đã thông qua Lời Kêu gọi cùng chung sống Pháp ngữ, Tuyên bố Yerevan, Chương trình Hợp tác Pháp ngữ giai đoạn 2019-2022, Chiến lược Bình đẳng nam – nữ, đồng thời tập trung vào các vấn đề an ninh, chính trị quốc tế và tại các nước Pháp ngữ, các chiến lược, chương trình và biện pháp nhằm thúc đẩy các giá trị chung gắn kết các nước Pháp ngữ như hòa bình, đoàn kết, tôn trọng đa dạng, hợp tác, phát triển.

II. CƠ CHẾ TỔ CHỨC CỦA CỘNG ĐỒNG PHÁP NGỮ
1. Các cơ quan chính trị:  

a. Hội nghị cấp cao (Sommet)

Hội nghị cấp cao những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước có sử dụng tiếng Pháp là cơ quan tối cao của Cộng đồng Pháp ngữ. Hội nghị họp hai năm một lần nhằm xem xét những vấn đề lớn về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật liên quan đến các nước trong Cộng đồng, đề ra đường lối, phương hướng hoạt động cho Cộng đồng và bầu Tổng thư ký Pháp ngữ. Các quyết định của Hội nghị được thông qua theo thể thức "đồng thuận" (consensus).

b. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao (CMF)

Sau Hội nghị cấp cao, CMF là cơ quan cao nhất về phương diện chính trị. CMF họp mỗi năm một lần (ngoài những kỳ họp bất thường) với tư cách là cơ quan của Hội nghị cấp cao và Đại hội đồng của Cơ quan liên chính phủ Pháp ngữ, nhằm đảm bảo tính liên tục trong hoạt động chính trị của Cộng đồng. CMF có nhiệm vụ chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao, khuyến nghị Hội nghị cấp cao chấp thuận các thành viên chính thức/thành viên liên kết/quan sát viên mới, giám sát việc thực hiện các quyết định của Hội nghị cấp cao, bổ nhiệm Tổng Giám đốc của Cơ quan liên chính phủ Pháp ngữ và cho ý kiến về việc phân bổ Quỹ đa phương duy nhất (FMU).

c. Hội đồng thường trực Pháp ngữ (CPF)

Đây là cơ quan chính trị thường trực của Cộng đồng được đặt dưới sự chỉ đạo của CMF. Thành viên của CPF bao gồm các đại diện cá nhân của những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước thành viên của Hội nghị cấp cao. Tổng thư ký Pháp ngữ là Chủ tịch chấp hành của CPF. CPF họp ít nhất 2 lần/năm. CPF có nhiệm vụ chuẩn bị Hội nghị cấp cao và theo dõi việc thực hiện các quyết định của Hội nghị cấp cao, giám sát việc thực hiện các quyết định của Hội nghị Bộ tr¬ưởng Ngoại giao, quyết định phân bổ và kiểm tra việc thực hiện Quỹ đa phương duy nhất và tiến hành đánh giá các chương trình hợp tác của các cơ quan thực thi. CPF cũng đồng thời là Hội đồng quản trị của Cơ quan liên chính phủ Pháp ngữ

d. Ban Tổng thư ký

Ban Tổng thư ký được đặt dưới sự chỉ đạo của Tổng thư ký Pháp ngữ. Tổng thư ký Pháp ngữ do những người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước thành viên bầu ra với nhiệm kỳ 4 năm. Tổng thư ký Pháp ngữ chịu sự chỉ đạo của các cơ quan chính trị: Hội nghị cấp cao, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao và Hội đồng thường trực Pháp ngữ. Tổng thư ký là người phát ngôn chính trị, là đại diện chính thức của Cộng đồng Pháp ngữ trên trường quốc tế và là người điều phối các hoạt động hợp tác đa phương Pháp ngữ. Tổng thư ký Pháp ngữ có nghĩa vụ báo cáo Hội nghị cấp cao về việc thực hiện nhiệm vụ của mình.

Cơ cấu của Ban Tổng thư ký:

Tổng Vụ nhân quyền và dân chủ: có trách nhiệm hỗ trợ Tổng thư ký Pháp ngữ thực hiện các nhiệm vụ chính trị của mình.

Hội đồng tư vấn của Ban Tổng thư ký: có nhiệm vụ nghiên cứu về các xu hướng phát triển cũng như tương lai trung và dài hạn của Cộng đồng Pháp ngữ.

Các Phái đoàn đại diện thường trực của Cộng đồng Pháp ngữ bên cạnh các tổ chức quốc tế: có nhiệm vụ khẳng định sự hiện diện, tình đoàn kết và vai trò của Cộng đồng Pháp ngữ trong đời sống quốc tế và phát triển quan hệ về thể chế giữa Cộng đồng Pháp ngữ và các tổ chức quốc tế khác. Cộng đồng Pháp ngữ hiện có 2 phái đoàn đại diện thường trực bên cạnh Liên hợp quốc tại Niu-Yóc (Mỹ) và tại Giơ-ne-vơ (Thuỵ Sĩ), 1 bên cạnh Liên minh châu Âu tại Brúc-xen (Bỉ) và 1 bên cạnh Liên minh châu Phi và Uỷ ban kinh tế của Liên hợp quốc cho châu Phi tại Ađi-Abêba (Ê-thi-o-pi).

e. Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành

Nhằm tăng cường sự hợp tác nhiều mặt giữa các nước thành viên, nhiều Hội nghị Bộ trưởng chuyên ngành của Cộng đồng đã được triệu tập nhằm triển khai việc thực hiện các chương trình, dự án hợp tác đã được thông qua tại các Hội nghị cấp cao, đồng thời xem xét, đề ra những phương hướng và kế hoạch cụ thể về hợp tác giữa các nước thành viên cũng như về việc phối hợp hành động của Cộng đồng trên bình diện quốc tế trong từng lĩnh vực.

f. Các cơ quan thực thi của Hội nghị cấp cao

Cơ quan liên chính phủ Pháp ngữ (AIF)
Cơ quan đại học Pháp ngữ (AUF)
Đài truyền hình quốc tế Pháp ngữ (TV5)
Tr¬ường đại học Xen-gho d’A-lếch-xăng-đờ-ri
Hiệp hội quốc tế thị trưởng các thành phố sử dụng một phần hay toàn phần tiếng Pháp (AIMF)

2. Cơ cấu tổ chức:

2.1. Cơ cấu thường trực:

2.1.1. Tổng Giám đốc: do Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao bổ nhiệm theo đề nghị của Tổng thư ký Pháp ngữ.

2.1.2. Văn phòng Tổng Giám đốc và 13 Vụ và đơn vị trực thuộc gồm:

+ Vụ hoạch định chương trình và đánh giá
+ Vụ ngân sách, tài chính và kế toán
+ Vụ nhân lực
+ Tổng Vụ nhân quyền và dân chủ
+ Vụ ngôn ngữ và chữ viết
+ Vụ văn hoá và di sản
+ Vụ điện ảnh và các phương tiện truyền thông
+ Vụ giáo dục, đào tạo kỹ thuật và dạy nghề
+ Vụ hợp tác kinh tế
+ Vụ phát triển xã hội và đoàn kết
+ Vụ hợp tác pháp lý và tư pháp
+ Học viện công nghệ mới về thông tin và đào tạo (Pa-ri, Pháp)
+ Viện năng lượng và môi trường (Quê-bếc, Canađa)

2.1.3. Các văn phòng khu vực: đóng vai trò là các cơ quan đại diện của AIF chịu trách nhiệm theo dõi và thúc đẩy hợp tác giữa AIF và tiểu vùng, nơi đặt văn phòng khu vực.
Tây Phi: Lômê (Tôgô)
Trung Phi và ấn Độ Dương: Li-brơ-vin (Gabông)
Châu á - Thái Bình Dương: Hà Nội (Việt Nam)

2.2. Các cơ quan chức năng:

2.2.1. Đại hội đồng: là cơ quan quyền lực cao nhất, họp ít nhất 1 lần/năm ở cấp Bộ trưởng Ngoại giao hoặc Bộ trưởng phụ trách Pháp ngữ. Đại hội đồng đề ra các định hướng cho hoạt động của AIF, thông qua chương trình hợp tác, ngân sách 4 năm, bổ nhiệm Tổng Giám đốc và quyết định những vấn đề lớn khác.

2.2.2. Hội đồng quản trị: Hội đồng thường trực Pháp ngữ (CPF) là Hội đồng quản trị của Cơ quan Pháp ngữ. Hội đồng quản trị là cơ quan chấp hành của Đại hội đồng họp ít nhất 1 lần/năm. Hội đồng quản trị thực hiện các quyết định của Đại hội đồng và báo cáo Đại hội đồng về hoạt động của AIF, việc thực hiện các chương trình hợp tác cũng như việc sử dụng các nguồn ngân sách.

3. Hoạt động:

3.1. Ngân sách : gồm 2 nguồn chính là ngân sách thường xuyên (đóng góp hàng năm của các thành viên) và ngân sách từ Quỹ đa phương (đóng góp tự nguyện và các nguồn thu khác). Từ năm 1992, hai nguồn này đã được hợp nhất thành Quỹ đa phương duy nhất (Fonds multilatéral unique).

3.2. Hình thức tài trợ: không hoàn lại, thông qua các dự án phù hợp với những ưu tiên của chương trình hợp tác 4 năm.

III. QUÁ TRÌNH THAM GIA CỦA VIỆT NAM VÀO CỘNG ĐỒNG CÁC NƯỚC CÓ SỬ DỤNG TIẾNG PHÁP

Nước CHXHCN Việt Nam gia nhập Cơ quan hợp tác văn hóa và kỹ thuật (ACCT- tiền thân của OIF) vào năm 1979. Từ đó đến nay, quan hệ giữa Việt Nam và Cộng đồng Pháp ngữ ngày càng được cải thiện và phát triển. Trước đó, phần lớn các nước Pháp ngữ đều ủng hộ tích cực cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong thế kỷ 20 và coi ta là biểu tượng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong hơn 30 năm qua, đặc biệt trong thời kỳ bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã tranh thủ được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ quý báu của Cộng đồng Pháp ngữ về nguồn vốn, chất xám, kỹ thuật... Đồng thời, Cộng đồng Pháp ngữ là diễn đàn để Việt Nam triển khai chính sách đối ngoại, là kênh để tranh thủ tăng cường quan hệ song phương với một số thành viên phát triển như Pháp, Ca-na-đa… hay với các nước bạn bè châu Phi truyền thống.

- Lãnh đạo cấp cao ta tham dự các HNCC Pháp ngữ, thể hiện cam kết ở cấp cao của Việt Nam đối với Cộng đồng Pháp ngữ: Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình dự Hội nghị Cấp cao lần thứ 8 năm 1999 tại Mông-tơn (Ca-na-đa), Chủ tịch nước Trần Đức Lương dự Hội nghị Cấp cao lần thứ 9 năm 2002 tại Bây-rút (Li-băng); Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa dự các Hội nghị Cấp cao lần thứ 10 năm 2004 tại U-a-ga-đu-gu (Buốc-ki-na Pha-xô) và lần thứ 11 năm 2006 tại Bu-ca-rét (Ru-ma-ni); Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan dự các Hội nghị Cấp cao lần thứ 12 năm 2008 tại Quê-bếc (Ca-na-đa), lần thứ 13 năm 2010 tại Mông-tơ-rơ (Thụy Sĩ), lần thứ 14 năm 2012 tại Kin-xa-sa (CHDC Công-gô) và lần thứ 15 năm 2014 tại Đa-ca (Xê-nê-gan). Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã tham dự Hội nghị Cấp cao lần thứ 16 diễn ra từ 26-27/11/2016 tại An-ta-na-na-ri-vô (Ma-đa-gát-xca). Phó Thủ tưởng, Bộ trưởng Phạm Bình Minh tham dự Hội nghị cấp cáo lần thứ 17 từ 11-12/10/2018 tại Ê-rê-van, Ác-mê-ni-a

- Với việc tổ chức thành công HNCC lần thứ 7 vào năm 1997 tại Hà Nội, Việt Nam đã có đóng góp quan trọng vào việc thể chế hóa hoạt động chính trị, đề cao hợp tác kinh tế bên cạnh các lĩnh vực chính trị, văn hóa-ngôn ngữ. Hiện nay, do tham gia đầy đủ và thực chất trên hầu hết các vấn đề ưu tiên của Cộng đồng, từ hoạch định chiến lược hợp tác, thúc đẩy cải cách hành chính nên Việt Nam được coi thuộc nhóm đang phát triển nòng cốt, có tiếng nói đối với việc hoạch định và triển khai chiến lược hợp tác của Cộng đồng Pháp ngữ.

- Việt Nam nhiều lần được Cộng đồng tín nhiệm bầu vào các cương vị quan trọng như Chủ tịch Hội đồng thường trực (CPF) năm 1996, Chủ tịch Hội nghị Bộ trưởng (CMF) nhiệm kỳ 1996-1997, Chủ tịch Hội nghị Cấp cao nhiệm kỳ 1997-1998, Phó Chủ tịch Ban Tài chính và Hành chính thuộc CPF hai nhiệm kỳ (2009-2011 và 2011-2013), Chủ tịch Ủy ban Hợp tác và Chương trình của CPF (2013-2015), thành viên Hội đồng quản trị của Cơ quan đại học Pháp ngữ (2013-2017 và 2017-2021), Chủ tịch Mạng lưới các Đại diện quốc gia phụ trách Pháp ngữ của khu vực châu Á-Thái Bình Dương (RESIFAP) nhiệm kỳ đầu tiên từ 2013-2016.

Việt Nam tham dự hầu hết các khóa Đại hội đồng của Liên minh Nghị viện Pháp ngữ (APF) và tham gia tích cực các hoạt động trong khuôn khổ Đại hội đồng. Được sự tín nhiệm của các Phân ban thành viên APF, Việt Nam đã được bầu làm Phó Chủ tịch APF ba nhiệm kỳ (2007-2009, 2009-2011, 2013-2015) và đã đảm nhiệm vai trò Chủ tịch Vùng châu Á-Thái Bình Dương nhiệm kỳ 2015-2017.

- Cộng đồng Pháp ngữ thể hiện sự coi trọng, thường xuyên cử Đoàn cấp cao thăm Việt Nam: Năm 1998, Tổng Thư ký Bu-tờ-rốt Bu-tờ-rốt Ga-li và Tổng Giám đốc Rô-giê Đơ-ép-bơ sang thăm; năm 2001 và 2002, Tổng Giám đốc Rô-giê Đơ-ép-bơ sang thăm; năm 2004, Tổng Thư ký Áp-đu Đi-úp sang thăm; năm 2012, Giám đốc OIF Clê-măng Đu-em sang thăm; năm 2013, Cố vấn đặc biệt của Tổng Thư ký Pháp ngữ U-xơ-man Pai sang thăm; năm 2014, Tổng Thư ký Áp-đu Đi-úp sang thăm; từ ngày 11-13/10/2016, Bà Tổng Thư ký Mi-ca-en Giăng đã đến thăm chính thức Việt Nam; và mới đây tháng 3/2018 Giám đốc OIF A-da-ma U-oan sang thăm.

- Trong chuyến thăm Việt Nam hồi tháng 3/2014, Tổng Thư ký Pháp ngữ Áp-đu Đi-úp phát biểu đánh giá cao vai trò và đóng góp của Việt Nam trong Cộng đồng Pháp ngữ như trong việc cải tổ hoạt động của OIF và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế của Cộng đồng, vai trò của Việt Nam trong khu vực cũng như trên các diễn đàn quốc tế khác; bày tỏ khâm phục đối với thành tựu Đổi mới của ta và coi Việt Nam là tấm gương về phát triển, hội nhập quốc tế cho các nước đang phát triển khác. Nhân chuyến thăm, Tổng Thư ký Áp-đu Đi-úp và Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh đã chứng kiến Lễ ký kết Bản ghi nhớ về việc OIF hỗ trợ các hoạt động của Trung tâm nghiên cứu và hợp tác Pháp ngữ tại Châu Á-Thái Bình Dương đặt tại Học viện Ngoại giao Việt Nam.

- Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 10/2016, Tổng Thư ký Pháp ngữ Mi-ca-en Giăng bày tỏ khâm phục tinh thần quật cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và ấn tượng về những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội. Bà Tổng Thư ký nhấn mạnh vai trò, vị trí quan trọng của Việt Nam trong Cộng đồng Pháp ngữ; hoan nghênh những đóng góp tích cực và cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với Cộng đồng. Bà cho rằng Việt Nam là một đối tác tin cậy và quan trọng của nhiều nước thành viên tại khu vực Châu Phi và khẳng định Cộng đồng Pháp ngữ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp khởi nghiệp, nhất là thanh niên và phụ nữ, thực hiện các chính sách cải cách về thuế và tài chính, kết nối các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp Châu Phi. Bà Michaëlle Jean đánh giá cao cách tiếp cận của Việt Nam trong việc thúc đẩy hợp tác cùng có lợi, bền vững và đoàn kết, thể hiện rõ nét trong các dự án hợp tác của các doanh nghiệp Việt Nam tại một số nước Pháp ngữ.

- Tháng 11/2014, lần đầu tiên văn kiện Hội nghị cấp cao Pháp ngữ (Nghị quyết về Tình hình các nước đang khủng hoảng, thoát khỏi khủng hoảng và củng cố hòa bình trong không gian Pháp ngữ) đã bày tỏ quan ngại mạnh mẽ về tình hình Biển Đông và kêu gọi các bên liên quan kiềm chế tối đa, giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước về Luật biển năm 1982 của LHQ; hoan nghênh các nỗ lực nhằm duy trì hòa bình, an ninh và ổn định, tự do, an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực, thể hiện đoàn kết và sự ủng hộ lẫn nhau trong Cộng đồng Pháp ngữ. b. Các hoạt động hợp tác chính giữa Việt Nam và Cộng đồng Pháp ngữ những năm gần đây

- OIF và các cơ quan thực thi đã phối hợp với một số nước thành viên Pháp ngữ thực hiện nhiều dự án tại Việt Nam, trong đó các dự án chính là : Đào tạo tăng cường nghiệp vụ cho giáo viên giảng dạy tiếng Pháp (CREFAP);Tăng cường tiếng Pháp ở khu vực Đông Nam Á (VALOFRASE); Thành lập Nhà Tri thức Pháp ngữ tại Huế; Đào tạo tiếng Pháp cho cán bộ ngoại giao và công chức Việt Nam từ 5/2013; Thành lập Trung tâm nghiên cứu và hợp tác Pháp ngữ tại Châu Á-Thái Bình Dương (CECOFAP).

OIF tiếp tục phối hợp cùng Cơ quan đại học Pháp ngữ (AUF) hỗ trợ Việt Nam về giảng dạy tiếng Pháp và bằng tiếng Pháp ở cấp phổ thông và đại học cũng như về nghiên cứu khoa học trong một số lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ, kinh tế, thương mại, dược, khoa học cơ bản, luật pháp…, đồng thời đào tạo kỹ sư tin học ứng dụng trình độ cao cho khu vực Á-Thái Bình Dương tại Viện tin học Pháp ngữ. Từ năm 1994, AUF đã mở văn phòng khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tại Việt Nam và hiện có khoảng 40 trường đại học của ta là thành viên của AUF. AUF cũng đã thành lập Không gian kỹ thuật số tại 3 thành phố lớn là Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Ngoài ra, OIF còn thực hiện các dự án quy mô nhỏ hơn về tin học, pháp luật, năng lượng, môi trường, giảm nghèo, giúp đào tạo giáo viên và hỗ trợ cơ sở vật chất trường học ở các vùng nghèo và khó khăn... Các dự án mà OIF thực hiện tại Việt Nam nhìn chung được đánh giá có hiệu quả.

Kể từ khi Việt Nam chính thức tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc (HĐGGHB LHQ) tháng 6/2014, OIF bày tỏ quan tâm và mong muốn thúc đẩy hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực này, bước đầu đã tài trợ cho các bộ ngành liên quan của ta tham dự khóa đào tạo tiếng Pháp chuyên ngành về các HĐGGHB LHQ tại Giơ-ne-vơ từ 15-18/2/2016. OIF đã bước đầu trao đổi với Trung tâm GGHB Việt Nam về khả năng hợp tác giữa Việt Nam và OIF về đào tạo tiếng Pháp, chuyên môn nghiệp vụ và chia sẻ kinh nghiệm cho các lực lượng của ta tham gia các HĐGGHB LHQ.

Đài truyền hình Việt Nam (VTV) đã ký thỏa thuận với TV5Monde phát sóng kênh này 24/24 giờ trên hệ thống truyền hình cáp viba (MMDS) từ 11/1997. TV5Monde mở rộng hợp tác với Việt Nam qua việc phát triển hợp tác trên các lĩnh vực : đào tạo (các biên tập viên, kỹ thuật viên, dựng phim bằng kỹ thuật số, quay phim...); trao đổi chương trình (theo hợp đồng); hợp tác sản xuất (phim tài liệu, phóng sự); tài trợ cho điện ảnh. Từ tháng 4/2011, TV5Monde châu Á có phụ đề tiếng Việt. Từ tháng 6/2015, Truyền hình Cáp Hà Nội tiến hành lộ trình kỹ thuật số truyền hình của Chính phủ giai đoạn 2011-2020, theo đó kênh TV5Monde trên hệ thống cáp dừng phát sóng và thay bằng kênh kỹ thuật số.

Thành phố Huế là thành viên chính thức của Hiệp hội của các Thị trưởng các nước thành viên Pháp ngữ (AIMF) - cơ quan thực thi của OIF năm 1992. Thành phố Huế và AIMF đã triển khai nhiều dự án về cải thiện môi trường, giáo dục, văn hóa, phúc lợi xã hội trên địa bàn thành phố. Sự kiện nổi bật nhất, minh chứng hiệu quả nối quan hệ này là Thành phố Huế đã tổ chức Đại hội đồng AIMF vào tháng 10/2007, được dư luận trong và ngoài nước đánh giá cao./.
.
IV. CƠ QUAN ĐẠI HỌC PHÁP NGỮ (AGENCE UNIVERSITAIRE DE LA FRANCOPHONIE)

Cơ quan đại học Pháp ngữ (AUF, trước đây là AUPELF-UREF) - Cơ quan Đại học Pháp ngữ (AUF), trước đây là Hiệp hội các trường đại học sử dụng từng phần hoặc toàn phần tiếng Pháp (AUPELF-UREF), là một tổ chức phi chính phủ thành lập năm 1961, gồm các trường đại học, trường lớn, mạng lưới đại học và các trung tâm nghiên cứu khoa học sử dụng tiếng Pháp trên thế giới. Với hơn 800 thành viên trên 113 quốc gia, AUF là một trong những hiệp hội lớn nhất về giáo dục đại học và nghiên cứu.

- AUF là cơ quan thực thi về đào tạo, giáo dục đại học và nghiên cứu của Hội nghị Thượng đỉnh Pháp ngữ. Sứ mệnh của AUF là triển khai các hoạt động để kiến tạo một môi trường khoa học tốt, phục vụ cho phát triển xã hội. Trong 55 năm qua, AUF đã hỗ trợ rất nhiều cơ sở nghiên cứu, trường đại học trên thế giới để mang đến một chất lượng giáo dục tốt hơn. - Ngân sách hàng năm của AUF thường trên 40 triệu ơ-rô (do Pháp đóng góp chủ yếu), trong đó khoảng một nửa ngân sách dành cho các chương trình hợp tác.

- AUF có trụ sở chính đặt tại Montreal (Canada); 10 văn phòng đại diện ở các khu vực Trung Phi, Tây Phi, Châu Mỹ, Châu Á – Thái Bình Dương, Vùng Ca-ri-bê, Trung và Đông Âu, Đông Âu Tây, Bắc Phi, Trung Đông và Ấn Độ Dương; 09 cơ quan hành chính; 37 Trung tâm kỹ thuật số Pháp ngữ; 05 viện Pháp ngữ dành cho việc đào tạo, tư vấn, chuyên môn,…

2. Quan hệ với Việt Nam:

- AUF hiện có Văn phòng châu Á-Thái Bình Dương (BAP) tại Hà Nội (từ 1994) và Ban quản lý dự án tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm hỗ trợ ta về giảng dạy tiếng Pháp ở cấp phổ thông và đại học cũng như về nghiên cứu khoa học. Hiện ta có 47 trường đại học/học viện là thành viên của AUF. Hàng năm, tổng mức tài trợ của AUF dành cho ta ước tính lên đến hơn 1 triệu ơ-rô. AUF chú trọng duy trì và phát triển các mạng lưới các trường đại học, các giảng viên, nhà nghiên cứu; hỗ trợ các hoạt động trao đổi giảng viên, nghiên cứu sinh giữa các trường thành viên để thúc đẩy hợp tác giữa các trường này trong giảng dạy và nghiên cứu đại học. Ngoài ra, AUF còn thực hiện các dự án quy mô nhỏ hơn về giúp đào tạo giáo viên, hỗ trợ cơ sở vật chất trường học ở các vùng nghèo và khó khăn... Các dự án mà AUF thực hiện tại Việt Nam nhìn chung được đánh giá có hiệu quả. Các chương trình hợp tác chính của AUF ở Việt Nam gồm:

+ Các chuyên khoa đại học Pháp ngữ (gần 50 chuyên khoa đào tạo khoảng 4.500 sinh viên trong một số lĩnh vực mũi nhọn như công nghệ, kinh tế, thương mại, dược, khoa học cơ bản, luật pháp…);
+ Các lớp song ngữ (664 lớp từ năm đầu của bậc tiểu học cho đến hết trung học thuộc 105 trường phổ thông tại 19 tỉnh thành với hơn 17.000 học sinh và 550 giáo viên);
+ Viện tin học Pháp ngữ (IFI): có mục đích giúp đỡ các nước thuộc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là Việt Nam, đào tạo một đội ngũ kỹ sư tin học ứng dụng trình độ cao. Kể từ 1995, IFI đã tổ chức được tổng cộng 30 khoá đào tạo sau đại học, mỗi khoá kéo dài 2 năm với khoảng 20 học viên. + Chương trình Hệ thống xuất bản và truyền tin Pháp ngữ (SYFED): cung cấp thông tin và tư liệu cho sinh viên, giáo viên và các nhà nghiên cứu Việt Nam.
+ Chương trình trợ giúp nghiên cứu: nhằm hỗ trợ và khuyến khích các nhà nghiên cứu khoa học Việt Nam có sử dụng tiếng Pháp dưới dạng cấp học bổng cho người làm nghiên cứu (kể cả làm luận án tiến sĩ), tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, lập quỹ hỗ trợ nghiên cứu, tổ chức các lớp bồi dưỡng tiếng Pháp cho các cán bộ nghiên cứu.
+ Các Trung tâm kỹ thuật số CNF tại Hà Nội (2015) và Thành phố Hồ Chí Minh (2016): Các dự án này phục vụ cho việc học tập, tra cứu tài liệu, sử dụng các công cụ ứng dụng kỹ thuật số cho các cán bộ, giảng viên, sinh viên các trường đại học có sử dụng tiếng Pháp. Các Trung tâm CNF đã triển khai hỗ trợ hàng chục nghìn lượt truy cập các nguồn thông tin khoa học kĩ thuật quốc tế, trợ giá mua trên 10000 bài báo và tài liệu khoa học chuyên ngành, đào tạo hàng nghìn lượt cán bộ, giảng viên, nhà nghiên cứu và sinh viên qua các khóa đào tạo chuyên đề.
- Từ năm 2006, thỏa thuận giữa Việt Nam và AUF về chương trình các lớp song ngữ hết hiệu lực. AUF tham gia tiếp vào dự án Tăng cường tiếng Pháp tại Đông Nam Á (VALOFRASE) cùng với các đối tác khác gồm Pháp, Canada-Quebec, Cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp (CFB), Việt Nam, Lào, Campuchia, OIF. Đây là dự án hỗ trợ toàn diện việc giảng dạy tiếng Pháp tại Việt Nam, Lào và Campuchia, từ bậc phổ thông đến đại học, từ việc giảng dạy tiếng Pháp trong các chương trình đặc thù như song ngữ đến việc dạy tiếng Pháp như ngoại ngữ một và ngoại ngữ hai. Dự án này cũng đã kết thúc vào tháng 12/2015. Hiện các đối tác trên đang xem xét xây dựng các dự án thay thế. - Việt Nam là thành viên Hội đồng quản trị của AUF 2001-2005, 2013-2017 và 2017-2021. Từ năm 2014, ta tham gia đóng góp tự nguyện cho AUF ở mức 15.000 ơ-rô/năm để chi cho các học bổng của sinh viên nước khác đến Việt Nam học tập. Năm 2015, nhân dịp 20 năm thành lập Văn phòng khu vực của AUF tại Hà Nội, Bộ ta đã trình và Chủ tịch nước đã quyết định trao tặng Huân chương hữu nghị cho Văn phòng.

(tháng 4/2019)

Bản quyền của Vụ Thông Tin Báo Chí - Bộ Ngoại Giao
© Copyright by Press and Information Department - Vietnam Ministry of Foreign Affairs
Email: Banbientap@mofa.gov.vn