Từ thực tế về sự tăng , giảm số kiều dân Việt Nam trên các nước và vùng lãnh thổ được ghi nhận trên đây có thể có những nhận xét như sau:
1- Sự tăng, giảm số lượng kiều dân còn mang tính truyền thống: Đó là sự gia tăng số lượng kiều bào Việt Nam tại các nước láng giềng gần gũi nhất. Sau thời gian chiến tranh và sau nhiều ảnh hưởng của các sự cố đột biến khác từ hậu quả của các cuộc xung đột vùng, mối quan hệ Việt Nam - Lào - Campuchia đã trở lại ổn định - nhờ đó việc di cư, định cư trở lại bình thường là điều rất đáng mừng. Nhìn rộng thêm ra 7 nước Đông Nam Á khác ta thấy: Ngoài số người Việt Nam ở Philippin không giảm cũng không tăng và ở Brunây mới biết được thông tin là có 12 người Việt Nam cư ngụ, còn ở 5 nước khác thì 10 năm qua số kiều dân Việt Nam đều giảm bớt, cụ thể như sau: Ở Inđônêxia giảm 96,80%; ở Singapo giảm 92,00%; ở Mianma giảm 84,00%; ở Malaixia giảm 75,00% và ở Thái Lan giảm 8,33%. Phải chăng thực tế này cho chúng ta một thông báo rằng: Mặc dầu 10 năm qua quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa các nước Đông Nam Á được củng cố và mở rộng rất nhiều, nhưng song song với điều đó lại đã có không ít những hiện tượng, những sự kiện khác ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển việc kiều cư của người Việt Nam. Chẳng hạn như các chính sách chặt chẽ của một số nước trong việc tiếp nhận người nhập khẩu lao động; đó chẳng hạn như là những biến động về xung đột tôn giáo, về nạn khủng bố, về họa thiên tai ? !
2- Sự giảm (¯) đồng loạt của số lượng kiều dân Việt Nam ở các nước trước đây thuộc khối xã hội chủ nghĩa Liên Xô - Đông Âu như: Nga (=) , Ba Lan (¯), Ucraina (¯), Hungari (¯), Bungari (¯), Rumani (¯), Etxtôni(¯), Lítva (¯), Anbani (¯), Nam Tư (¯), Latvia (¯) là dễ hiểu. Hầu hết ở các nước nhỏ thuộc khu vực này số lượng kiều dân Việt Nam đều giảm. Riêng ở Nga thì vẫn giữ nguyên số lượng cũ. Ở Séc và Xlôvakia (Tiệp Khắc trước đây) có tăng; ở Đức, bao gồm Tây và Đông Đức trước đây, vẫn giữ số lượng kiều dân Việt Nam như 10 năm về trước. Tất cả những thực tế tăng, giảm đó một phần chứng tỏ rằng sự xáo trộn việc kiều cư của người Việt Nam ở khu vực này do sự biến “sụp đổ” đã dần dần qua đi. Mục đích kiều cư thay đổi từ kiều cư chủ yếu là để học tập, lao động xuất khẩu... đến kiều cư tự do để làm ăn, sinh sống cá thể là chính, đã được chấp nhận và dần dần có xu thế ổn định mang tính bền vững. Một số lớn kiều bào ở đây có nhu cầu chuyển sang làm ăn, sinh sống ở phương Tây mà trước hết là tạm cư qua Tiệp rồi qua Đức, một thời đã gặp nhiều khó khăn về mặt thủ tục xuất nhập cảnh, thủ tục xác nhận quốc tịch, xác nhận phép cư trú, phép sản xuất, buôn bán, làm ăn... cho đến nay cũng dần dần được giải quyết theo hướng ổn thỏa. Điều đó chứng tỏ một phần hiệu quả của công tác tổ chức, vận động kiều bào tại đây; chứng tỏ các đường lối, chủ trương, chính sách của Việt Nam trên lĩnh vực này đã đem lại kết quả khả quan.
3- Nhân vừa nhắc đến các nước Bắc Âu vốn trước đây là các nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô Viết, thấy cần nhìn lại sự thay đổi số lượng kiều dân Việt Nam tại cả vùng Bắc Âu này. Trong vùng này ngoài quần đảo quốc nhỏ bé Chanen (Chanel Islands) với diện tích chỉ 200 cây số vuông, còn lại 10 nước. Tại 10 nước này, trong 10 năm qua số kiều dân Việt Nam giảm, ngoài Ailen (Ireland) giảm từ 500 xuống còn 350 kiều dân Việt Nam, còn lại 3 nước bị giảm khác lại chính là 3 nước trước đây thuộc Liên Xô: Ở Lítva giảm từ 400 xuống còn 250 người Việt Nam; ở Etxtônia giảm từ 300 xuống chỉ còn có 30 người Việt Nam; ở Látvia giảm từ 100 xuống chỉ còn lại 20 người Việt Nam (!). Trong khi đó chính tại cái miền giá lạnh khủng khiếp đối với người dân từ vùng nhiệt đới Việt Nam này, mười năm qua lại đã tăng vọt số kiều dân Việt Nam lên: Ở Anh tăng thêm 15.000 người Việt Nam; ở Na Uy tăng thêm 5.000 người; ở Đan Mạch tăng thêm 6.500; ở Thụy Điển tăng thêm 8.000; ở Phần Lan tăng thêm 5.000; ở Aixơlen mới biết thêm là có 1.000 người Việt Nam cư ngụ... Cần có một sự nghiên cứu kỹ càng, đầy đủ hơn về sự tăng, giảm số người Việt Nam kiều cư tại Bắc Âu, nhưng trước mắt hãy xem sự tăng vọt số kiều dân Việt Nam tại đây như là một sự kiện đáng mừng; như là một thành công của bà con kiều bào trong việc phát hiện ra một vùng đất tuy khắc nghiệt về khí hậu, nhưng ở đó có những dân tộc thích hợp để cùng người Việt Nam làm ăn, sinh sống... mà nhiều thập kỷ, nhiều thế kỷ trước kiều dân Việt Nam chưa biết đến.
4- Đáng chú ý nhất đồng thời cũng cần đặc biệt quan tâm để tìm hiểu sâu hơn, nghiên cứu kỹ hơn là những số liệu tăng, giảm kiều dân Việt Nam trong 10 năm qua tại 8 nước và vùng lãnh thổ thuộc miền Đông Á. Số lượng tăng, giảm đó diễn biến cụ thể như sau: Ở Trung Quốc giảm 120.000 kiều dân Việt Nam; Ở Hồng Công giảm 48.000; Ở Triều Tiên giảm 1.800; Ở Mông Cổ giảm 465 kiều dân Việt Nam. Trong khi đó ở Đài Loan tăng 105.000 kiều dân Việt Nam; Ở Hàn Quốc tăng 4.500; Ở Nhật Bản tăng 4.000; Ở Ma Cao tăng 79 kiều dân Việt Nam.
Ai và như thế nào thì mới có thể gọi là “người Việt Nam ở Trung Quốc” vẫn chưa có những tiêu chí thật rõ ràng để xác định. Cho nên, các số liệu về người Việt Nam kiều cư tại Trung Quốc hiện nay có thể cách biệt nhau rất xa. Sự gia tăng đột biến số lượng kiều dân Việt Nam tại Đoàn Loan và Hàn Quốc thì có thể được giải thích là trong 10 năm qua hiện tượng phụ nữ Việt Nam lấy chồng người Hàn Quốc và đặc biệt là người Đài Loan quá nhiều. Có nguồn tin cho biết: Trong 10 năm qua có tới hơn 4.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng Hàn Quốc và có hơn 80.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan; còn người Việt Nam xuất khẩu lao động sang Đài Loan thì có gần 30.000. Trước một sự thực đang diễn ra mang tính đột biến như thế rất cần được xem xét kỹ từ nhiều khía cạnh về mặt tâm lý, về mặt xã hội cũng như về chủ trương, chính sách... để có được những định hướng thật hợp lý về các vấn đề đó trong tương lai. Sự giảm sút từ 50.000 xuống chỉ còn 2.000 kiều dân Việt Nam tại Hồng Công trong 10 năm qua thì có thể giải thích được. Đó là do sự giải tỏa cả một loạt “trại tỵ nạn” là hậu quả của chiến tranh, của sự xung đột quân sự trong quá khứ. Ngày nay Hồng Công đã trở về lại với Trung Quốc, thiết tưởng lập lại việc kiều cư bình thường mang tính truyền thống của người Việt Nam tại vùng lãnh thổ này phải là ý nguyện và thiện chí từ tất cả các phía hữu quan. Riêng sự gia tăng người Việt Nam kiều cư tại Nhật Bản từ 6.000 lên 10.000 thì cần xem đó như là một tín hiệu tốt. Cư ngụ, làm ăn, sinh sống hòa hợp được với hơn 127 triệu dân Nhật Bản đầy sáng tạo và tân tiến, hy vọng kiều bào ta ở đây sẽ thu được cho mình những kết quả khả quan về nhiều mặt, đóng góp đáng kể hơn cho đất nước quê hương cũng như cho nước sở tại.
5- Tại 18 nước Tây Á và 14 nước Trung Nam Á trong 10 năm qua đã xảy ra nhiều sự bất ổn: Xung đột quân sự, nạn khủng bố, thiên tai... Những điều này ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc làm ăn, sinh sống của kiều bào ta. Cho đến nay mà vẫn còn một số lượng bà con kiều bào với chiều hướng tăng, giảm so với 10 năm trước như ở bảng ghi dưới đây kể cũng đã có thể xem như là một thành quả rất đáng ghi nhận về khả năng của kiều bào trong nỗ lực thích nghi với vô vàn khó khăn, gian khổ ở hoàn cảnh của các nước sở tại.
Tây Á chỉ ở 9 nước sau đây có kiều dân Việt Nam cư ngụ:
TT
|
Tên nước hoặc
vùng lãnh thổ
|
Số kiều dân Việt Nam (1994-1995)
|
Chiều hướng tăng, giảm
|
Số kiều dân Việt Nam (2004-2005)
|
|
Irắc
|
1.000
|
¯
|
100
|
|
Ixraen
|
200
|
¯
|
40
|
|
Gióocđani
|
200
|
¯
|
20
|
|
Côoét
|
100
|
¯
|
7
|
|
Libăng
|
-
|
-
|
40
|
|
Ả rập Xêút
|
1.000
|
¯
|
57
|
|
Xiri
|
-
|
-
|
5
|
|
Thổ Nhĩ Kỳ
|
2.000
|
¯
|
200
|
|
Yêmen
|
-
|
-
|
10
|
Trung Nam Á cũng chỉ ở 8 nước sau đây có kiều dân Việt Nam cư ngụ:
TT
|
Tên nước hoặc
vùng lãnh thổ
|
Số kiều dân Việt Nam (1994-1995)
|
Chiều hướng tăng, giảm
|
Số kiều dân Việt Nam (2004-2005)
|
|
Bănglađét
|
500
|
¯
|
50
|
|
Iran
|
1.000
|
¯
|
53
|
|
Kadăcxtan
|
-
|
-
|
50
|
|
Cưrơgưxtan
|
-
|
-
|
20
|
|
Nêpan
|
100
|
¯
|
10
|
|
Pakixtan
|
1.000
|
¯
|
20
|
|
Tuốcmênixtan
|
-
|
-
|
39
|
|
Udơbêkixtan
|
-
|
-
|
100
|
6- Bắc Mỹ có hai nước là Canađa và Hoa Kỳ. Tại hai nước này trước đây vốn đã có nhiều người Việt Nam kiều ngụ, trong 10 năm qua ở đây lại là nơi kiều dân Việt Nam gia tăng thuộc loại nhiều nhất: Ở Canađa tăng từ 150.000 lên 200.000; Ở Hoa Kỳ tăng từ 950.000 lên 1.300.000 kiều dân Việt Nam. Như vậy là tổng số kiều dân Việt Nam tại hai nước Bắc Mỹ đã chiếm ngót 1/2 tổng số kiều dân Việt Nam trên toàn thế giới. Nhìn từ nhiều phía, số kiều dân Việt Nam tăng lên ở đây mà rõ nhất là số 350.000 người tăng lên tại Hoa Kỳ trong 10 năm qua có những nét giống, nhưng cũng có rất nhiều nét khác so với số người Việt Nam đã định cư ở đây trước năm 1945, trước năm 1954, trước năm 1975 và khác ngay cả với số người Việt Nam định cư tại Mỹ trước năm 1995. Con số 350.000 kiều dân Việt Nam mới tăng thêm tại Hoa Kỳ trong 10 năm qua phần lớn là nhập cư không phải vì những lý do liên quan đến hậu quả của cuộc chiến tranh Mỹ - Việt thời 1954 - 1975 mà là sự nhập cư chủ yếu vì những lý do tìm vùng đất thích hợp để làm ăn, sinh sống, học tập, công tác...; nhập cư vào Hoa Kỳ, và cả vào Canađa nữa, trong thời gian 10 năm vừa qua là sự nhập cư tự nguyện; nhập cư với nhu cầu của bản thân và theo những cơ sở pháp lý càng ngày càng minh bạch hơn của chính quyền từ cả hai phía. Điều này nói lên một phần rất lớn kết quả những thiện chí của Nhà nước Việt Nam và của các chính quyền Hoa Kỳ thời hậu chiến Việt Nam trong việc hàn gắn những rạn nứt của quá khứ, hướng về tương lai sáng và đẹp vốn tiềm ẩn trong ý nguyện của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân dân Mỹ, nhân dân Canađa. Hoa Kỳ là nơi mà kiều dân Việt Nam được sống tập trung với nhau thành những quần cư đông đúc. Điều đó tạo cho kiều bào rất nhiều thuận lợi trong sinh sống, làm ăn. Hàng rào ngôn ngữ không là trở ngại quá to lớn đối với những lớp kiều dân Việt Nam chưa có hoặc không có điều kiện để hiểu biết thông thạo ngôn ngữ nước sở tại trong giao tiếp để làm ăn, sinh sống ở đây. Sống trong những quần cư đông đúc toàn người Việt Nam là rất thuận lợi để cho các thế hệ nối tiếp, kể cả các thế hệ con lai giữ được ngôn ngữ gốc của Việt Nam. Bản sắc dân tộc, phong tục, tập quán... Việt Nam, cũng nhờ sống thành các quần cư đông đúc toàn người Việt Nam với nhau như vậy mà có nhiều cơ may được bảo tồn, phát triển. Với những suy nghĩ đó, chúng ta mừng cho cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ trong 10 năm vừa qua đã có thêm 350.000 đồng bào cùng kiều ngụ.
7- Vùng Caribê thuộc Châu Mỹ có 17 nước và vùng lãnh thổ, trong đó chỉ có 2 nước được biết chắc là có kiều dân Việt Nam cư ngụ. Từ trước năm 1994 mới chỉ biết là có 2.000 người Việt Nam kiều cư tại Cuba, đến nay tại Cuba chỉ còn lại 25 người Việt Nam, đồng thời mới biết thêm là có 15 người Việt Nam nữa ở Haiti. Như vậy, hơi đáng tiếc là nay chỉ có vỏn vẹn 40 người Việt Nam kiều cư trên cả một vùng đất rộng hơn 235 ngàn cây số vuông, tuy xa Việt Nam nhưng là vùng đất hứa hẹn về những mối liên kết nhiều mặt quan trọng thuộc mọi lĩnh vực trong tinh thần hữu nghị đặc biệt, như là hữu nghị Cuba - Việt Nam đã, đang và chắc chắn sẽ còn phát triển mạnh hơn nữa.
Ở vùng Trung Mỹ, hồi trước 1994 có hơn 2.000 người Việt Nam kiều cư tại Mêhicô. Nay con số này bị giảm xuống mạnh chỉ còn lại độ 1/10; mới được biết thêm là có 3 người Việt Nam cư ngụ tại Panama nữa, thế là trên 8 nước vùng Trung Mỹ với ngót 2.500 ngàn cây số vuông chỉ có vài trăm kiều dân Việt Nam cư ngụ. Đây cũng là điều không được bình thường, rất đáng quan tâm đối với tất cả những ai, tất cả những tổ chức, cơ quan hữu quan từ nhiều phía thuộc phạm vi quốc gia cũng như quốc tế.
Số lượng kiều dân Việt Nam ở vùng Nam Mỹ trong 10 năm qua cũng đồng loạt giảm sút mạnh: 5 nước và vùng lãnh thổ mà từ 1994 đã biết là có kiều dân Việt Nam thì tính đến năm 2005 diễn biến về số lượng như sau: Braxin từ 1.000 giảm còn 100 người; Áchentina từ 500 giảm còn 80 người; Chilê và Pêru mỗi nước đều từ 500 giảm còn 50 người. Côlômbia từ 500 giảm còn 10 người. Mới được biết thêm ở Guyana có 8.000 người Việt Nam kiều cư; ở Gaine thuộc Pháp có 200 người, ở Paragoay có 16 người và ở Êcuađo có 8 người là kiều dân Việt Nam nữa. Như vậy tức là tổng số kiều dân Việt Nam tại 9 trong số 13 nước và vùng lãnh thổ Nam Mỹ hiện nay là: 8.514 người mà chủ yếu là tại Guyana (8.000). Sự giảm số lượng kiều dân Việt Nam tại một loạt quốc gia và vùng lãnh thổ Nam Mỹ, Trung Mỹ và vùng Caribê đồng thời tăng mạnh ở hai nước Bắc Mỹ trong 10 năm qua là những hiện tượng mang tính bất thường. Điều này rất cần nghiên cứu từ nhiều góc độ, thuộc nhiều phía hữu quan để vãn hồi sự kiều cư bình thường cho kiều dân Việt Nam ở đây.
8- Chỉ trong một diện tích 1.107 ngàn cây số vuông mà có tới hơn 185 triệu dân cư trú. Đó là khu vực 9 nước Tây Âu. Tại đây có nước mật độ dân cư cao tới 341 người trên 1 cây số vuông (Bỉ); 399 người trên 1 cây số vuông (Hà Lan), cá biệt ở Mônacô mật độ dân cư cao tới 10.000 người trên 1 cây số vuông. Trong cái vùng đất hẹp, người đông ấy, ngày nay vẫn có mặt kiều dân Việt Nam trên cả 9 nước. Một bảng ghi các con số dưới đây thiết tưởng có thể giúp ích ít nhiều cho những ai quan tâm đến vấn đề kiều dân Việt Nam ở vùng này.
TT
|
Tên nước
|
Dân số nước sở tại
(ngàn người)
|
Số kiều dân Việt Nam (ngàn người)
|
Tỷ lệ kiều dân Việt Nam so với dân nước sở tại (phần ngàn)
|
|
Đức
|
82.600
|
100
|
1,21
|
|
Pháp
|
60.000
|
300
|
5,00
|
|
Hà Lan
|
16.300
|
15
|
0,92
|
|
Bỉ
|
10.400
|
12
|
1,15
|
|
Áo
|
8.100
|
3
|
0,37
|
|
Thụy Sĩ
|
7.300
|
6,5
|
0,89
|
|
Lúcxămbua
|
500
|
0,100
|
0,20
|
|
Lichtenxtâyin
|
30
|
0,020
|
0,66
|
|
Mônacô
|
30
|
0,010
|
0,33
|
Cái tỷ lệ cứ trong 1.000 dân Pháp hiện nay thì có 5 người là kiều dân Việt Nam là một tỷ lệ rất cao. Nhìn vào quá khứ lịch sử về mối quan hệ lâu đời giữa Pháp và Việt Nam ta thấy điều đó dễ hiểu. Từ một phía khác chúng ta còn thấy so với 10 năm trước, số kiều dân Việt Nam tại Pháp bị giảm mạnh. Từ 400.000 giảm xuống chỉ có 300.000 người. Sự sút giảm đó phải chăng một phần có thể giải thích được nếu dựa trên cơ sở của sự sút giảm trong quan hệ kinh tế, quan hệ khoa học, công nghệ; quan hệ giáo dục - đào tạo... Pháp - Việt so với Mỹ - Việt?; hoặc dựa trên cơ sở của sự sút giảm vai trò Pháp ngữ so với Anh ngữ đối với người Việt Nam trong thời gian 10 năm vừa qua?, v.v... Trong cả 9 nước của toàn vùng Tây Âu 10 năm qua số kiều dân Việt Nam giảm bớt gần 90 ngàn mà ngoài những nguyên nhân nói trên có thể vì nhiều nguyên nhân khác nữa. Nhưng, sự giảm bớt cả 100 ngàn kiều dân Việt Nam tại Pháp đã chi phối mạnh tới tất cả sự tăng, giảm của các nước khác ở đây. Giảm bớt kiều dân Việt Nam tại vùng đất văn hóa, văn minh cao này đương nhiên là đáng tiếc. Tuy vậy, số kiều dân Việt Nam còn lại hiện nay hơn 436 ngàn người trên toàn vùng Tây Âu này kể ra cũng là điều cần xem như là thành quả rất đáng ghi nhận về sự phấn đấu của nhiều thế hệ kiều bào tại đây để thích nghi, hòa hợp với nhân dân các nước sở tại - nhân dân của các nước mà chỉ số phát triển con người rất cao. Cụ thể, năm 2002 Đức được xếp hạng 19; Pháp hạng 16; Lúcxămbua hạng 5 của 175 nước và vùng lãnh thổ có đưa vào xếp hạng trên toàn thế giới. Dù có tăng, giảm tới thế nào đi chăng nữa, số kiều bào còn lại ở Tây Âu vẫn là biểu trưng đẹp về những thành tựu đóng góp của kiều bào cho Tổ quốc, cho quê hương gần suốt một thế kỷ qua mà nổi bật nhất là đóng góp cho sự thành công của Hiệp định Giơnevơ đình chỉ chiến sự ở Việt Nam năm 1954 và Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam năm 1973.
9- Ở Nam Âu kiều dân Việt Nam cư trú và sự tăng, giảm số lượng diễn ra trong 10 năm qua như sau: Trong 13 nước của vùng này có 8 nước được biết là từ trước 1994 đã có kiều dân Việt Nam ở. Mười năm qua chỉ có ở Italia là số kiều dân Việt Nam tăng từ 2.000 đến 3.000 người. Còn lại 7 nước kia đồng loạt giảm mạnh: Ở Anbani giảm từ 2.000 xuống chỉ còn 200 người; ở Anđôra từ 100 giảm còn 10 người; ở Hy Lạp từ 700 giảm còn lại chỉ 20 người; ở Bồ Đào Nha từ 1.000 giảm xuống còn 100; ở Xan Mario từ 100 giảm xuống còn 20; ở Tây Ban Nha từ 2.000 giảm xuống còn 1.000; ở Nam Tư từ 1.000 giảm xuống chỉ còn lại 100 kiều dân Việt Nam cư ngụ. Mới biết thêm là ở Manta có 5 kiều dân Việt Nam. Như vậy, hiện nay trên toàn bộ vùng đất Nam Âu có 4.455 kiều dân Việt Nam cư ngụ thay vì cách đây 10 năm có tới 8.900 người. Sự giảm bớt, thậm chí giảm bớt rất nhiều số kiều dân Việt Nam tại một số nước ở đây phải chăng là do hậu quả của sự sụp đổ hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa?; phải chăng do ảnh hưởng của những cuộc xung đột quân sự?; phải chăng do sức hút về hoạt động kinh tế, hoạt động giáo dục, đào tạo, hoạt động xuất khẩu lao động... của một số nước Tây Âu, Bắc Mỹ?;... Ngoài ra cũng cần tìm thêm những lý do khác từ mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước sở tại của vùng này; từ diễn biến tổng hợp của tình hình quốc tế liên quan đến việc cư trú, làm ăn của kiều dân Việt Nam tại vùng đất này. Tìm ra cho thật nhiều và thật chính xác các lý do làm giảm bớt số lượng kiều bào ta ở đây để tạo thêm thật nhiều điều kiện thuận lợi nhằm gia tăng số lượng hiện có là rất cần. Bởi vì, bên cạnh việc kiều cư để làm ăn, sinh sống về kinh tế, xã hội thì việc kiều cư để hòa hợp, giao tiếp với gần 150 triệu dân sở tại có truyền thống văn minh, văn hóa lâu đời, có chỉ số phát triển con người khá cao như ở vùng Nam Âu này thiết tưởng cũng thuộc về nhu cầu và mục đích lâu dài và chân chính trong sự nghiệp kiều cư của người Việt Nam ta.
10- Châu Đại Dương có 17 nước và vùng lãnh thổ. Hồi 1994 - 1995 mới chỉ biết 3 nước có người Việt Nam kiều ngụ: Ôxtrâylia có 160.000 người; ở Niu Zilân có 300 người và ở Pocpua Niu Ghinê có 300 người. Đến 2004-2005 này được biết ở Ôxtrâylia số kiều dân Việt Nam đã tăng lên tới 250.000; ở Niu Zilân đã có tới 2.412 người Việt Nam kiều ngụ, ở Pocpua Niu Ghinê giảm xuống chỉ còn lại 30 người, trong lúc đó được biết thêm là đến 2004-2005 tại Tân Calêđônia có 5.000 kiều dân Việt Nam; tại Vanuata có 400 người và tại Guam có 15 kiều dân Việt Nam cư ngụ. Như vậy, hiện nay tổng số kiều dân Việt Nam tại Châu Đại Dương có 257.857 người. Đây là vùng đất rộng (8.537.000 cây số vuông), người ít (33 triệu), mật độ dân cư chỉ 4 người trên 1 cây số vuông và dân tập trung tới 72% tại các thành thị. Xét riêng về mặt này thôi thì đây là vùng đất lý tưởng cho người muốn di cư đến. Xét về mặt lịch sử hiện đại, Việt Nam đã có những sự kiện lớn tạo ra một loạt làn sóng di cư và địa bàn Châu Đại Dương là nơi mà di dân Việt Nam đã luôn hướng tới, trải qua 20 năm sau sự kiện 1975, với nhiều mắc mớ lịch sử phải dày công tháo gỡ tại đây và phải nói là đã tháo gỡ tốt. 10 năm gần đây có thể xem là thời kỳ mà việc nhập cư, định cư của người Việt Nam tại Châu Đại Dương đã thật sự ở vào thế ổn định theo chiều hướng khả quan. Kết quả này là điển hình rõ nét nhất cho một nhận định mà chúng tôi đã nêu ra hồi giữa thập kỷ 90 của thế kỷ trước rằng: Mức độ thành, bại xét trên tổng thể của kiều bào tại mỗi nước hoặc vùng lãnh thổ chủ yếu phụ thuộc vào ba yếu tố: 1/ Chiều hướng phát triển của các mối quan hệ trên trường quốc tế; 2/ Chiều hướng phát triển của các mối quan hệ giữa nước hoặc vùng lãnh thổ sở tại với Việt Nam; 3/ Chiều hướng phát triển tổng thể của tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... tại bản thân quê hương Việt Nam.
11- Trong số 56 nước Châu Phi ngày nay chỉ tại 13 nước là có kiều dân Việt Nam cư ngụ: Tại Trung Phi: Ở Anggôla có 800 kiều dân Việt Nam; Ở Cônggô có 10 người và ở Cộng Hòa Trung Phi có 10 người kiều dân Việt Nam. Tại Tây Phi: Ở Cốtdivoa có 253 và ở Xênêgan có 20 người là kiều dân Việt Nam. Tại Bắc Phi: Ở Angiêri có 110 người; Ở Marốc có 100 người; Ở Libi có 10 người và ở Ai Cập có 10 người là kiều dân Việt Nam. Tại Đông Phi: Ở Madagátxca có 100 người; Ở Kênia có 51 người và ở Tandania có 10 người Việt Nam kiều ngụ. Tại Nam Phi: Ở nước Nam Phi có 23 người Việt Nam cư ngụ. Trong 13 nước này thì chỉ có 6 nước là có cơ quan đại diện Việt Nam cấp Đại sứ quán, còn 7 nước khác là Cốtđivoa, Marốc, Mađagátxca, Kênia, Xênêgan, Cônggô và Cộng hòa Trung Phi chưa có Đại sứ quán và cũng chưa có lãnh sự quán hoặc Cơ quan khác được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự ở nước ngoài của Việt Nam. Đó kể cũng là một điều mà các cơ quan hữu quan cần đặc biệt lưu ý.
Người Việt Nam có mặt ở Châu Phi đã khá lâu. Hồi những năm giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX được biết trong các nước sau đây có người Việt Nam ở: Angiêri có 1.000 người Việt Nam (nay chỉ còn lại 100 người); Marốc có 500 người Việt Nam (nay chỉ còn lại 100 người); Kênia có 200 người Việt Nam (nay chỉ còn lại 51 người); Libi có 100 người Việt Nam (nay chỉ còn lại 10 người); Ai Cập có 1.000 người Việt Nam (nay chỉ còn lại 10 người). Sự giảm sút mạnh số lượng người Việt Nam ở tất cả các nước đó là liên quan đến hàng loạt sự kiện chính trị, quân sự, kinh tế... đã diễn ra hết sức dữ dội và khốc liệt tại Châu Phi 10 năm qua. Những bà con kiều bào còn tiếp tục làm ăn sinh sống ở vùng này chắc hẳn cần rất nhiều sự hỗ trợ về nhiều mặt của cả hai phía: Phía các nước sở tại và phía đất nước quê hương.
Châu Phi là lục địa mà chỉ số phát triển con người rất thấp. Theo số liệu thống kê xếp hạng năm 2003 cho 177 nước trên thế giới, thì Châu Phi chỉ có 4 nước được xếp hạng dưới thứ 100. Đó là Xâysen - thứ 35, Libi - thứ 58; Morixơ - thứ 64 và Tuynidi - thứ 92. Còn lại 52 nước khác đều bị xếp hạng bằng 3 chữ số, tức là từ hạng thứ 100 trở lên. Đặc biệt có 27 nước Châu Phi được xếp hạng từ thứ 150 đến 176; tức là trong 27 nước có chỉ số phát triển con người vào hàng thấp nhất thế giới thì Châu Phi đã có tới 25 nước (còn 2 nước nữa là Haiti thuộc vùng Caribê của Châu Mỹ được xếp hạng 153 và Đông Timo thuộc Đông Nam Á được xếp hạng 158). Xin được lưu ý thêm rằng: Tại Châu Phi, trong những nước có bà con kiều bào ở, đều hầu như là những nước mà chỉ số phát triển con người thuộc hạng thấp nhất: Mađagascar - hạng 150/177; Gibiti - hạng 154/177; Eritơrêa - hạng 156/177; Xênêgan - hạng 157/177; Ruanđa - hạng 159/177; Tandania - hạng 162/177, Côtđivoa - hạng 163/177; Dămbia - hạng 164/177; Malauy - hạng 165/177; Ănggôla - hạng 166/177; Cộng hòa Trung Phi - hạng 169/177; Êtiôpia - hạng 170/177; Môdămbich - hạng 171/177; Burunđi - hạng 173/177.
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là thước đo tổng hợp phản ánh sự phát triển của con người trên các phương diện thu nhập (thể hiện qua tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người), tri thức (thể hiện qua chỉ số học vấn) và sức khỏe (thể hiện qua tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh). Thiết tưởng chỉ xem xét qua ba phương diện đó cũng đã thấy sức phấn đấu để làm ăn, sinh sống của kiều bào ta trong môi trường xã hội Châu Phi là lớn lao biết chừng nào! Sự quan tâm, hỗ trợ để cho bà con kiều bào ở đây tồn tại và phát triển chắc còn phải được tăng cường gấp bội ở thời gian tới trong suy nghĩ và hành động của những người, những cơ quan hữu trách, và cả trong suy nghĩ và hành động của toàn thể đồng bào trong và ngoài nước.
Năm 1995, trong tổng kết công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mang mã số KX04-10 “Luận cứ khoa học cho việc đổi mới chính sách xã hội đối với người Việt Nam ở nước ngoài” tôi có nêu 5 quan điểm cơ bản cần được quán triệt mà quan điểm thứ nhất thiết tưởng cần nhắc lại ở đây nhân bàn về kiều bào đầu thế kỷ mới và đặc biệt là nhân bàn tới bà con kiều bào đang sống tại Châu Phi như vừa nói: “Cần khẳng định dứt khoát rằng: Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm bảo hộ quyền lợi chính đáng của kiều bào trên cơ sở luật pháp Việt Nam, luật pháp các nước sở tại và luật pháp quốc tế”.
Những số liệu thông tin về người Việt Nam ở nước ngoài mới nhận được trong những năm đầu của thế kỷ mới càng củng cố thêm sự đúng đắn của lời khẳng định trên, càng tạo thêm nhiều cơ sở pháp lý để việc bảo hộ quyền lợi chính đáng của kiều bào được thực hiện với tính hiệu quả ngày một cao.
Tháng 02 năm 2006
Tiến sĩ Trần Trọng Đăng Đàn
(Nhà nghiên cứu Khoa học xã hội)