Công cụ làm việc cá nhân
Trang chủ | Liên hệ | Fonts | Sitemap | Tìm kiếm
Chủ nhật, 27/04/2025 19:2

Tận dụng lực lượng chuyên gia Việt kiều

Bài tham luận này nêu ra một số ý kiến và đề xuất rút ra từ kinh nghiệm hơn 10 năm hợp tác giữa một số nhỏ anh em làm công tác Khoa Học-Kỹ Thuật ở Marseille với các đối tác trong nước.

Tận dụng lực lượng chuyên gia Việt kiều

Bài tham luận này nêu ra một số ý kiến đề xuất rút ra từ kinh nghiệm hơn 10 năm hợp tác giữa một số nhỏ anh em làm công tác Khoa Học-Kỹ Thuật Marseille với các đối tác trong nước.

Tôi chỉ xin đưa ra vài nhận xét về thực tế của nhu cầu hiện đại hoá chúng tôi đã lĩnh hội được cũng như những khó khăn đã trải qua để chúng ta cùng tham khảo, nếu thể, cùng tìm một phương hướng chung nhằm đổi mới hoạt động đóng góp của anh em chuyên gia VK nói riêng việc sử dụng lực lượng Trí Thức VK nói chung, phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.

Trên tinh thần đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau, không bi quan nhưng không hồng thực tế, những quan điểm nêu ra trong bài này thể không phù hợp với ý kiến của một số anh chị em đại biểu. Tôi xin chân thành tạ tội với các bạn đó hy vọng sau những buổi thảo luận chúng ta sẽ cùng nhau tiến tới việc thống nhất trên những quan điểm bản về nội dung cũng như về phương thức đóng góp.

Mục đề

I. Đóng góp của Marseille vùng PACA

II. Kiến thức hiện đại CNH-HĐH

III. Công nghệ cao: chuyển giao kiến thức chuyển giao công nghệ

IV. Vai trò của các đội ngũ chuyên gia VK

V. Tạm kết: vài đề xuất để tăng cường, mở rộng, phối hợp lực lượng

new_of_H1.jpg

Lễ trao tặng 25 máy PC cho Trường
Dân lập Dạy nghề kỹ thuật cao Hải Phòng

 

new_of_H2.jpg

Lớp tập huấn đào tạo cán bộ và học
sinh Trường DLDNCNC sử dụng
máy PC trên mạng LAN

 

I. Đóng góp của Marseille Vùng PACA

Trong việc hợp tác với Việt Nam, Marseille may mắn được dựa trên 2 ưu điểm rất ít tỉnh khác bên Pháp có được:

* Chủ tịch Đại Học Địa Trung Hải trong nhiệm kỳ vừa qua GS Michel Laurent, người Pháp sinh trưởng tại Nội. Một số GS người Pháp-Việt (bố Pháp, mẹ Việt) như GS Jacques Derrien, GS Daniel Dufresne giữ chức Phó Chủ tịch Đại học. GS J. Derrien, G Trường Kỹ ESIL một chuyên gia quốc tế đầu ngành về Khoa học Nano, GS D. Dufresne G Trường Kỹ Unimeca, một đơn vị quan trọng của Khu Công nghệ cao Château Gombert. Ngoài các vị lãnh đạo đó, một số anh em VK cũng làm việc trong H những quan nghiên cứu CNRS Marseille những vị trí trách nhiệm như giám đốc, phó giám đốc, trưởng khoa v..v..

* Về phía chính quyền địa phương, tôi may mắn được một người bạn thân ông Lucien Weygand từ năm 1994 đến năm 2003 giữ chức Chủ tịch Hội đồng Tổng hợp (Conseil Général, tương đương với UBND Tỉnh của chúng ta). Ông Weygand đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tài trợ một số chương trình hợp tác của Hội Liên minh Pháp-Việt sự phát triển (AFVD) do tôi thành lập với sự bảo trợ của H Marseille CNRS. 

Hội thảo học Pháp Việt 1994


Giới thiệu Công nghệ Biển tại Hội thảo

 

 

Dựa trên hai ưu điểm đó, Marseille đã trở thành địa bàn đầu tàu trong việc hợp tác với VN cho cả khu vực PACA phía Nam nước Pháp.

1994: Tổ chức Hội thảo Pháp-Việt về học Kỹ thuật tiền tiến TP HCM Nội.

1995: Tặng Viện học Nội một máy tính Bull Escala song vi xử lý (bi-processeurs) với một mạng cục bộ LAN gồm 4 máy vi tính PC để phục vụ công tác tính toán phỏng học của Viện.

1996: Tổ chức đưa Đoàn Tỉnh Marseille sang VN kết với TP Hải Phòng Văn bản Hợp tác phi tập trung.

1997: Tổ chức đưa một Đoàn chính quyền Marseille sang VN tham gia những hoạt động giao lưu - triển lãm trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh các nước sử dụng tiếng Pháp. Tổ chức đưa Đoàn ĐH Marseille sang VN kết những văn bản hợp tác song phương với các trường ĐH VN...

2002: Tặng Trường Dân lập Dạy nghề Kỹ thuật cao Hải Phòng 25 bộ máy vi tính PC, với đầy đủ trang thiết bị ấn loát, mạng LAN v..v..

2003: Tổ chức Hội thảo Hợp tác Âu Á tại Khu Công nghệ cao Château-Gombert. Hơn 50 đại biểu các nước Âu Á: Ấn Độ, Lai, Indonesia, Việt Nam, Pháp, Anh, Italia Đức đã tới tham gia. Đoàn VN đông nhất (6 người trong đó 2 GS Trường ĐH Thái Nguyên). Chương trình hợp tác với Thái Nguyên bắt đầu thành hình từ Hội Thảo Âu Á 2003.

2004: Tổ chức mời Đoàn của GSVS Đặng Minh, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học VN xuống Marseille gặp gỡ lãnh đạo các Trường sở Nghiên cứu Khoa học CNRS trong dịp anh Minh sang Pháp công tác trong chương trình song phương với CNRS Paris. Trong chuyến đi Marseille lần này, Viện Hàn lâm VN đã cùng các đối tác Marseille bàn thảo một số phương hướng hợp tác cụ thể, trong những lĩnh vực Khoa học Nano, Vật liệu mới, Công nghệ sinh thái môi trường (Bio Technologie, Environnement), Công nghệ Thông tin... Hoạt động này cũng một kết quả trực tiếp của Hội Thảo Âu- Á năm 2003.

một số hoạt động nhỏ tính chất phong trào như giúp đỡ thực tập sinh VN sang học tập Marseille, giới thiệu sinh viên Pháp với những sở VN để các em đó sang VN học tập, tìm hiểu văn hoá tình hình phát triển kinh tế hội của VN trong quá trình đổi mới, mở cửa để hội nhập với nền kinh tế quốc tế.

Các hoạt động nói trên một tầm vóc rất khiêm tốn so với những chương trình quy lớn trong khuôn khổ Hợp tác song phương cấp Chính phủ. Nhưng một số khía cạnh tôi nghĩ rằng chúng ta thể coi như những điểm tất yếu:

* Đáp ứng thiết thực nhu cầu cấp bách về hiện đại hoá của một số sở địa phương, đặc biệt những vùng nông thôn, miền núi v..v.. trong lĩnh vực đào tạo nhân lực ứng dụng để phát triển kinh tế hội trong giai đoạn trước mắt.

* Tính chất đa dạng trong các hình thức nội dung hoạt động nhắm mục tiêu tận dụng những khả năng đóng góp của anh chị em chuyên gia VK. Khả năng đóng góp đó, theo chúng tôi, không phải chỉ kiến thức kinh nghiệm chuyên môn của mình, chủ yếu uy tín, chỗ đứng trong hội Pháp, mạng lưới liên hệ với các tổ chức KHKT, nghiên cứu giảng dạy, với bạn đồng nghiệp... đó những điểm đặc thù các bạn chuyên gia trong nước không đủ điều kiện để phát huy.

* Tập trung năng lực trong ngoài nước vào việc trang thiết bị đào tạo cấp bách những đội ngũ kỹ , chuyên viên kỹ thuật, chuyên viên các phần mềm ứng dụng v..v.., với số lượng chất lượng ít nhất cũng tương đương với trình độ của các nước Đông Nam Á..., nhanh chóng nâng cao nhân lực KHKT-CN của chúng ta lên trình độ quốc tế kịp thời với các nước láng giềng trong khu vực. 


Hội thảo Âu Á tại Viện Công nghệ
Địa Trung Hải Marseille 2003


Hội họp từ xa giữa Marseille
Thái Nguyên qua mạng Intranet Marseille
- TN

 

II. Kiến thức hiện đại CNH-HĐH

Trong những cuộc trao đổi kinh nghiệm với bạn đồng nghiệp nước ngoài, tôi nhận thấy không ít các bạn đó quan niệm sự đóng góp chủ yếu của chuyên gia VK chất xám, chất xám chủ yếu kiến thức hiện đại kiến thức hiện đại nằm trong những chương trình nghiên cứu giảng dạy của các hệ thống giáo dục hàn lâm Tây phương!

Theo chúng tôi thì quan điểm này đáp ứng khía cạnh lâu dài trong việc cải tiến hệ thống giáo dục của chúng ta, chứ chưa mang lại những giải đáp cho nhiều nhu cầu thực tế trước mắt về CNH-HĐH.

Thứ nhất, anh chị em chuyên gia trong nước, ít nhất những bạn tôi đã được quen biết làm việc chung, cũng một vốn liếng kiến thức hiện đại tương đương hoặc sấp sỉ với các chuyên gia VK, theo nghĩa nói trên. khác chăng thì chỉ trong công cụ phương pháp truyền đạt kiến thức.

Thứ nhì, chúng ta, những người làm công tác nghiên cứu giảng dạy KHKT-CN trong các tổ chức hàn lâm thường hay ưu tiên khía cạnh tri thức: học để biết chứ không chú trọng đúng mức khía cạnh kiến thức: học để làm. Tình trạng thông thường các quan hàn lâm làm nghiên cứu thuyết bản, các tổ chức kinh tế làm việc phát minh công nghệ (Innovation Technologique) rất ít khi phối hợp với nhau. vậy, các nước tiền tiến đều khuyến khích sự giao lưu, hợp tác giữa các tổ chức hàn lâm các công ty công nghệ cao (Technopoles)

Trong nước, chúng ta cũng đã những chương trình tương tự Nội TP HCM. Đó một chính sách tính chất quyết định cho sự nghiệp CNH-HĐH. Theo chúng tôi thì VK khả năng đóng góp hữu hiệu nhất trong việc sử dụng kinh nghiệm hợp tác quốc tế, đặc biệt trong những lĩnh vực Công nghệ cao.

III. Công nghệ cao: chuyển giao kiến thức chuyển giao công nghệ

Trong quá trình làm việc với trong nước, tôi chỉ được biết những chương trình chuyển giao kiến thức chứ chưa được chứng kiến những chương trình chuyển giao công nghệ: đó cũng việc dễ hiểu, chuyển giao công nghệ một hoạt động kinh tế thương mại. Theo quy chế thông thường của quốc tế, chỉ việc mua, bán công nghệ, kể cả Công nghệ cao, chứ không việc chuyển giao công nghệ theo nghĩa hỗ trợ, đóng góp, trừ những trường hợp đặc biệt tôi không được biết.

Vậy các chuyên gia VK thể làm được việc trong chuyển giao công nghệ? Theo chúng tôi, giới chuyên gia VK làm công tác nghiên cứu giảng dạy phần đông không khả năng tài chính để đầu vào việc chế tạo hay mua bán những phát minh công nghệ.

Các chuyên gia thuộc thành phần kinh tế như những công ty VK thì phải hoạt động theo quy luật của kinh tế, chỉ thể mua, bán công nghệ. Điểm quan trọng anh chị em VK, người làm khoa học hay người làm kinh tế, ai cũng nghĩ đến việc đặt quyền lợi của đất nước VN đứng trên quyền lợi riêng của mình. Điểm này đã được trong nước thông suốt.

Vậy theo tôi, trong lĩnh vực này, đóng góp hữu hiệu nhất của các chuyên gia VK hỗ trợ các quan trong nước trong việc thẩm định các tiêu chuẩn khoa học của những đề án mua bán công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao.

IV. Vai trò của các đội ngũ chuyên gia VK

Trong một thời gian khá lâu, theo sự hiểu biết hạn chế của tôi, thì dường như việc sử dụng chuyên gia VK chỉ giới hạn mội vài hoạt động riêng lẻ như tham gia chủ trì những semina chuyên đề, tính chất nhân hơn một chương trình chuyển giao kiến thức quy lâu dài, trừ một vài trường hợp rất hiếm.

Hơn nữa, cách đây mấy năm, các bạn đồng nghiệp trong nước xu hướng chỉ chờ đợi chúng tôi việc tìm học bổng cho sinh viên của các bạn đó đi nước ngoài du học, hoặc tác động các quan nước ngoài mời anh em sang tham gia nghiên cứu giảng dạy, hoặc chủ động lo liệu việc thiết kế đề án, làm hồ xin tài trợ của các tổ chức quốc tế v..v..

Cố nhiên những công việc đó cần phải làm, nhưng nếu anh em chỉ chú trọng đến khía cạnh này thì thực một việc lãng phí trí tuệ rất đáng tiếc. Không dùng đúng người, đúng chỗ, để thất thoát mất những vốn liếng chất xám kinh nghiệm hiện đại anh em VK đã phải hết sức vất vả đấu tranh bao nhiêu năm trời mới dành được trong hội các nước tiền tiến. 


Khảo sát nhu cầu hợp tác vùng Tây Bắc
2004 - 
Họp với UBND Tỉnh Hoà
Bình


Khảo sát nhu cầu hợp tác vùng Tây Bắc
2004 -
Họp với UBND Tỉnh Lạng
Sơn

 

Vậy vai trò của trí thức VK nói chung của các chuyên gia KHKT-CN nói riêng nằm chỗ nào? Theo thiển ý của địa phương chúng tôi, các đội ngũ chuyên gia VK, đặc biệt các anh chị em sắp sửa hay đã về hưu, khả năng đóng góp nhiều lĩnh vực:

+ Trực tiếp tham gia nghiên cứu, giảng dạy, nâng cấp cán bộ đào tạo (formation de formateurs) VN trong những chương trình dài hạn quy hệ thống, chẳng hạn như với vị trí GS thỉnh giảng.

+ Tư vấn cho các quan, các tổ chức nhà nước, dân lập, thục, công ty v..v.. trong những chương trình hiện đại hoá nội dung, phương thức cũng như công cụ hoạt động của họ. Một dụ cụ thể tham gia hướng dẫn đội ngũ cán bộ KHKT của các quan trung ương địa phương trong quá trình xây dựng những công cụ hiện đại phục vụ việc quản phát triển kinh tế hội: sở dữ liệu, mạng Intranet v..v..

Xúc tác hỗ trợ anh em đồng nghiệp trong việc đưa vào cuộc sống nghề nghiệp thường ngày kỹ năng thói quen sử dụng những công cụ giao lưu, học tập hiện đại: Tìm phổ biến thông tin trên Internet, học tập từ xa (Télé Enseignement), Hệ thống tự học (Auto Formation), Systèmes Auteur tạm dịch Hệ thống tác giả v..v..

Tham gia những chương trình KHKT-CN mũi nhọn cấp trung ương hoặc địa phương. Một dụ cụ thể tôi nắm việc nghiên cứu sử dụng công nghệ xử song song (Traitement Parallèle) trong các ứng dụng quản , hành chính, tính toán khoa học kỹ thuật v..v..

Tham gia những đội ngũ vấn đa ngành (multi disciplinaire) trong những hoạt động tính chất nghiên cứu chiến lược lâu dài, trong những lĩnh vực đất nước cần đến kiến thức kinh nghiệm của chuyên gia VK.

lẽ còn nhiều loại đóng góp khác trước mắt tôi chưa nhìn thấy...

V. Tạm kết: Vài đề xuất để tăng cường, mở rộng, phối hợp lực lượng

Tôi xin đề xuất một vài ý kiến để chúng ta cùng tham khảo, với hy vọng trong cũng như ngoài nước, chúng ta sẽ thống nhất được trên những điểm bản nhằm tăng cường năng suất đóng góp của anh em.

Phía Việt kiều:

* Tôi đề nghị chúng ta nhanh chóng đưa vào sử dụng các công cụ Internet đã sẵn: Mail, News Groups, Forum, FAQ, Chat, Điện thoại quốc tế miễn phí v..v.. qua một website những dịch vụ đó được mọi người chấp nhận. Theo tôi thì lẽ nên chọn một Site Web trong nước, chẳng hạn như Site của UBVNVNONN, nếu anh em trong nước đồng ý.

* Sau một thời gian ngắn, chúng ta thể trao đổi thường xuyên trên một số vấn đề lớn như anh chị em đã thỉnh thoảng làm với công cụ Email: cải tiến hệ thống giáo dục VN, Năng lượng nhân tử, Bảo vệ môi trường, Công nghệ sinh thái v..v.. Mục tiêu chính từng bước thành lập cụ thể một đội ngũ đa ngành sẵn sàng làm vấn cho các quan các bạn đồng nghiệp trong nước chức năng liên quan đến chiến lược phát triển bền vững.

Phía trong nước:

* Tôi đề nghị các quan chức năng, nếu chưa , nhanh chóng xây dựng những cấu trúc tiếp nhận vấn để tận dụng các đội ngũ chuyên ngành đa ngành VK.

* Phổ biến rộng rãi thường xuyên những thông tin về khả năng thiện chí đóng góp của các chuyên gia KHKT CN trí thức VK nói chung, qua những phương tiện hiện đại, nhạy bén. Trong việc này, tôi xin mạn phép lưu ý anh em các bạn nên chủ động gửi thông tin đến các quan nhu cầu hay tiềm năng nhu cầu, chứ không đợi họ tìm đến ta. Để xúc tiến việc tận dụng chuyên gia VK, nên chăng một Bản tin điện tử chuyên đề, được xuất bản theo một định kỳ nhất định gửi đến các quan trong nước cũng như cho các chuyên gia VK nước ngoài.

* Dứt khoát hoàn toàn bãi bỏ chế độ <Xin, Cho> đã một thời làm cho anh em hết sức vất vả trong việc đóng góp với đất nước, theo tôi thì đó một trong những nguyên nhân đã hạn chế việc tận dụng vốn liếng trí tuệ không nhỏ của chúng ta nước ngoài. Rất may từ mấy năm nay, UBVNVONN đã liên tục tranh thủ các quan chức năng để tháo gỡ những vướng mắc trong diện này, đã tận tình giúp đỡ anh chị em chuyên gia khi chúng tôi về nước làm việc. Xin chân thành cảm tạ các vị lãnh đạo cán bộ của UB đã phải chịu nhiều vất vả chúng tôi.

Tôi xin kết thúc bài tham luận này với sự khẳng định anh em Marseille chúng tôi sẽ mặt bất cứ nơi nào đất nước cần đến chúng tôi. Vốn xuất thân từ phong trào sinh viên đấu tranh hoà bình từ những năm 1957-58, chúng tôi lấy việc đóng góp với quê hương làm lẽ sống từ tuổi thanh niên cho đến nay. Tôi không nhớ nhà thơ nào đã viết câu: Mỏi gối chồn chân vẫn cứ trèo!

lẽ câu thơ này rất phù hợp với tâm nguyện của anh chị em Marseille.

Đặng Quốc Kỳ (Pháp)

Tạo bởi admin
Cập nhật 07-09-2006
Tạp chí Quê Hương trên Internet
Kênh thông tin của Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài
Tổng biên tập Hoàng Bình
Toà soạn: Số 7B Ngõ Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Tel: (84-4) 9.33.39.23, 9.33.39.24
Fax: (84-4) 8.25.92.11 - E-mail: info@quehuong.org.vn - quehuong@hn.vnn.vn
Giấy phép 399/GP-BVHTT ngày 26/12/2000 của Bộ Văn hoá - Thông Tin