Cận kim thời đại – Nhà Nguyễn. Chương VII. Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ (phần 1)
(Tiếp theo kỳ trước)
QUYỂN V
CẬN KIM THỜI ĐẠI
NHÀ NGUYỄN
(1802 – 1945)
CHƯƠNG VII
NƯỚC PHÁP LẤY ĐẤT NAM KỲ
1. QUÂN PHÁP ĐÁNH ĐÀ NẴNG. Trong thời đại khó khăn như đời vua Dực Tông, mà vua quan cứ khư khư giữ lấy thói cũ, không biết theo thời mà mở nước cho người ta vào buôn bán, không biết nhân dịp mà khai hoá dân trí, lại vì sự sùng tín mà đem giết hại người trong nước, mà đem làm tội những người đi giảng đạo, bởi những sự lầm lỗi ấy, cho nên nước Pháp mới có cớ dùng binh lực để báo thù cho những người giáo sĩ bị hại [1].
Nguyên từ năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 về sau, nghĩa là từ khi có tờ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy người giáo sĩ là ông Bonard, ông Charbonnier, ông Matheron và ông giám mục I-pha-nho tên là Diaz bị giết. Còn những giáo sĩ khác thì phải đào hầm đào hố mà ở, hoặc phải trốn tránh ở trong rừng trong núi để giảng đạo. Những tin ấy về đến bên Tây, các báo chí ngày ngày kể những thảm trạng của các người giáo sĩ đi truyền đạo ở nước ta, lòng người náo động cả lên.
Chính phủ nước Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến thuyền “Catinat” vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách Triều đình Việt Nam về việc giết đạo. Sau khi thấy quan ta lôi thôi không trả lời, quân nước Pháp bèn bắn phá các đồn luỹ ở Đà Nẵng, rồi bỏ đi. Bấy giờ là tháng 8 năm Bính Thìn (1856) là năm Tự Đức thứ 9.
Được 4 tháng sau thì sứ thần nước Pháp là ông Montigny ở nước Tiêm La sang, để điều đình mọi việc. Chiếc tàu của ông Montigny đi vào đóng ở cửa Đà Nẵng, rồi cho người đưa thư lên nói xin cho người nước Pháp được tự do vào thông thương, đặt lĩnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng, và cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo. Trong bấy nhiêu điều triều đình nước ta không chịu điều nào cả.
Bấy giờ bên nước Pháp đã lập lại đế hiệu, cháu ông Nã-phá-luân đệ nhất là Nã-phá-luân đệ tam lên làm vua. Triều chính lúc bấy giờ thì thuận đạo, lại có bà Hoàng hậu Eugénie cũng sùng tín. Vả chăng khi chiếc tàu “Catinat” vào cửa Đà Nẵng, có ông giám mục Pellerin trốn được xuống tàu rồi về bệ kiến Pháp hoàng, kể rõ tình cảnh các người giảng đạo ở Việt Nam.
Ông P.Cultru chép ở trong sách Nam kỳ sử ký (Histoire de la Cochinchine) rằng: lúc bấy giờ có nhiều người quyền thế như ông chủ giáo thành Rouen là Mgr de Bonnechose và có lẽ cả bà Hoàng hậu cũng có nói giúp cho ông giám mục Pellerin. Bởi vậy Pháp hoàng mới quyết ý sai quan đem binh thuyền sang đánh nước ta, Lại nhân vì những giáo sĩ nước I-pha-nho cũng bị giết, cho nên chính phủ hai nước mới cùng nhau trù tính việc sang đánh nước Việt Nam. Ấy cũng tại vua quan mình làm điều trái đạo, giết hại những người theo đạo Gia tô cho nên mới có tai biến như vậy.
Tháng 7 năm Mậu Ngọ (1858) là năm Tự Đức thứ 11, Hải quân Trung tướng nước Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu I-pha-nho cả thảy 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào cửa Đà Nẵng, bắn phá các đồn luỹ, rồi lên hạ thành An Hải và thành Tôn Hải.
Triều đình được tin ấy liền sai ông Đào Trí ra cùng với quan Tổng đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng tiễu ngự. Ông Đào Trí ra đến nơi thì hai cái hải thành đã mất rồi. Triều đình lại sai quan Hữu quân Lê Đình Lý làm tổng thống đem 2.000 cấm binh vào án ngự.
Ông Lê Đình Lý vào đánh với quân Pháp một trận ở xã Cẩm Lệ bị đạn, về được mấy hôm thì mất.
Vua Dực Tông lại sai quan Kinh lược sứ là ông Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống, ông Chu Phúc Minh làm Đề đốc cùng với ông Đào Trí chống giữ với quân Pháp và quân I-pha-nho.
Ông Nguyễn Tri Phương lập đồng Liên Trì và đắp luỹ dài từ Hải Châu cho đến Phúc Ninh, rồi chia quân ra phòng giữ. Cứ như sách Nam kỳ sử của ông Cultru thì ý quan Trung tướng Rigault de Genouilly định lấy Đà Nẵng xong rồi, lên đánh Huế, nhưng mà đến lúc bấy giờ thấy quan quân phòng giữ cũng rát, và lại có người đem tin cho Trung tướng không biết rõ tình thế ra làm sao, mà đường sá lại không thuộc, cho nên cũng không dám tiến quân lên.
Nhân vì khi trước các giáo sĩ đều nói rằng hễ quân Pháp sang đánh, thì dân bên đạo tức khắc nổi lên đánh giúp, đến nay không thấy tin tức gì, mà quân lính của Trung tướng thì tiến lên không được. Ở Đà Nẵng thì chỗ ăn chỗ ở không có, lại phải bệnh dịch tả chết hại mất nhiều người, bởi vậy Trung tướng lấy làm phiền lắm. Bấy giờ có ông giám mục Pellerin cũng đi theo sang ở dưới tàu Ménésis, Trung tướng cứ trách ông giám mục đánh lừa mình, giám mục cũng tức giận bỏ về ở nhà tu dạy đạo tại thành Pénang ở bên Mã Lai.
Được mấy tháng, Trung tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn định kế vào đánh Gia Định là một nơi dễ lấy, và lại là một nơi trù phú của nước Nam ta.
(Xem tiếp kỳ sau)
Cập nhật 08-05-2006