Làng Xóm Việt Nam: Nhận diện một làng quê
Lâu lâu tôi lại về làng. Làng tôi vẫn như xưa, vẫn như hồi tôi còn để chỏm, ngày ngày cấp sách tới ông đồ, ăn mày đạo Thánh dăm ba chữ. Làng tôi không thay đổi gì, từ hình thể đến dân làng. Có khác chăng đó là những thằng bạn thả diều, bắn bi của tôi từ thuở nhỏ đã lớn, những cái đĩ thằng cu, xưa kia đầu chốc, cởi truồng, đã thay hình đổi dạng thành những cô gái làng xinh đẹp đỏm dáng, thành những cậu trai làng khỏe mạnh cần cù thương yêu miếng đất mảnh vườn, xoắn xuýt với thửa ruộng mẫu ao… còn những cô gái làng xưa, nay đã có chồng, có cô lại con dắt con díu, con bồng con mang.
Ngắm lại những cô gái xưa tôi thầm yêu trộm nhớ đã là những thím nọ, mợ kia với chiếc áo hở lườn, với đôi vú thõng dưa gang, vừa vội vã đi hớt bèo cho lợn, vừa vội vã tắm cho ba bốn đứa con thơ, tôi giật mình thấy thời gian đi mau chóng. Câu ca dao ở đâu phảng phất tới với tôi:
Anh đi em chửa có chồng
Anh về con dắt, con bồng, con mang
Con thì chẻ nứa đan sàng
Con thì cắp nách, con mang cạnh sườn!
Và những thằng bạn thuở nhỏ của tôi, thường cùng tôi vật nhau lúc chăn trâu, thường cùng tôi ê–a quyển Hán tự Tân thư cũng đã là những anh chàng ngoan ngoãn chăm lo vườn tược ruộng nương, có anh đã có hai ba con!
Anh nào anh nấy bộ mặt nghiêm trang đúng đắn, đi ra khỏi ngõ là áo dài khăn lượt trông thật đạo mạo.
Những người lớn thì đã bắt đầu già. Có người tóc điểm hoa râm, có người mắt đã bắt đầu đeo kính. Còn các cụ già, nhiều cụ đã không còn nữa!
Các cụ đã ăn xôi nói theo danh từ hài hước quê mùa. Hỏi thăm các cụ, có người thản nhiên trả lời: "Các cụ đi với ông sáu Tấm!"
Ấy cái khác của làng tôi chỉ có thế ! Còn đâu vẫn vào đấy.
CỔNG LÀNG
Đầu làng vẫn chiếc cổng xây, hai bên hai rặng tre kéo dài, dài cho đến hết vòng làng. Trên cổng làng chiếc mái hơi cong cong, và dưới mái mấy chữ nho đóng khung trong một hình chữ nhật hầu như gần mờ nhạt hết, nét mực đen trên nền vôi trắng cũng đã đổi màu vì phong sương với lớp rêu lờ mờ phủ.
Hai bên cổng thành hình hai cột trụ, vẫn đôi câu đối tự bao giờ, chữ không còn hẳn rõ mực, nhưng vì đắp nổi lên, nên trải qua mưa gió, rêu phủ lờ mờ, đôi câu đối vẫn rõ ràng với người tỉnh mắt.
ĐƯỜNG LÀNG
Con đường từ ngoài đi vào làng cũng vẫn chẳng khác xưa, đi từ đường cái lớn, ngòng ngoèo trên những bờ ruộng, xuyên qua cổng đầu làng, đi vào trong làng, rồi dần dần đi suốt làng cho tới cổng cuối làng. Cổng cuối làng cũng chẳng khác gì cổng đầu làng, nếu không có những chữ đại tự ghi trên cổng, không giống những chữ đại tự ghi trên cổng không giống những chữ đại tự ở cổng đầu làng cũng như đôi câu đối hai bên thành cổng mà nội dung khác hẳn đôi câu đối ở cổng đầu làng.
Đến đây con đường lại chui qua cổng cuối làng để ra đồng ruộng, bỏ mặc hai rặng tre, hai bên cổng của lũy tre làng ngơ ngác.
Con đường đi như dường luyến tiếc, làng tôi uốn éo qua mấy bờ ao, mấy bờ ruộng cho tới mãi xa xa mới chịu ẩn mình dưới những ruộng mạ con gái xanh mơn mởn ở hai bên.
Con đường làng này, không phải nó đã đi một mạch thẳng từ đầu làng đến cuối làng đâu. Vào trong làng nó đã tách ra làm năm bảy nhánh đi vào năm bảy xóm lượn qua những bờ ao vườn chuối để đi đến tận từng nhà.
Có một nhánh đường đi thẳng một mạch từ con đường chính tới cửa đình làng, rồi men đình để vào một xóm mé trong. Lại có một nhánh, sau khi tách rời khỏi con đường chính, đi ngay vào chiếc giếng giữa làng có lẻ để thăm ngó các cô gài làng kín nước và để nghe các cô nói chuyện bông đùa với nhau, gán cho nhau những anh trai làng xem chừng có ý ngấp nghé cách cô ! Tiếng cười các cô giòn giã, giọng nói các cô trong trẻo ngây thơ !
Giếng làng nằm dưới một gốc đa lớn bóng vùng rất xa làm râm mát cả một khu. Cây đa không biết mọc từ bao giờ và mọc ở đó tới đến bao giờ ? Khi tôi lớn lên cây đa đã có, và mẹ tôi cũng đã bảo tôi hồi còn nhỏmẹ tôi cũng hàng ngày ra giếng gánh nước và nghỉ mát dưới gốc đa. Rễ đa lủng lẳng muốn ăn xuống tới đất, nhưng chỉ lủng lẳng vậy thôi, khó bao giờ mà ăn xuống đất được, vì lũ trẻ con chúng tôi đời đời thường níu lấy rễ cây đánh đu, khiến cho rễ cứ trụi dần và chỉ dài tới một mức nào là hết cỡ.
Cây đa ở giếng làng như có vẻ hiền từ. dưới gốc đa loáng thoáng vài ba chiếc bình vôi, thỉnh thoảng có người đến cắm dăm ba nén hương ! Và chỉ có thế thôi, không có bàn thờ, cũng không có bình vôi treo lủng lẳng vào các rễ phụ như ở cây đa đầu làng.
CÂY ĐA ĐẦU LÀNG
Cây đa đầu làng quả thật dễ sợ hơn cây đa trên bờ giếng. Cây đa trên bờ giếng đã già, nhưng cây đa đầu làng lại cổ thụ hơn. Trông to lớn vô cùng với những rể phụ ăn hẳn xuống đất cũng đã biến thành những thân cây khác. Dưới gốc cây rể bò lổm ngổm, khi nổi trên mặt đất, khi lửng lơ nửa chìm nửa nổi tạo nên những cái hốc ăn sâu vào rể cây, hoặc ăn sâu xuống mặt đất. Các cụ bảo rằng trong các hốc đó có ngựa ngài ở , vá các cụ giải thích ngựa ngài là những cặp rắn có mào, có khi là những cặp rắn trắng toát với mào đỏ chót. Không biết các cụ có đã trông thấy ngựa ngài thật không, nhưng nghe lời các cụ tả, khi thế này, khi thế khác, và các cụ bảo ngựa ngài có phép biến hóa, muôn hình vạn trạng.
BÀN THỜ GỐC ĐA
Ngay ở gốc cây đa, không biết ai đã xây từ bao giờ một bàn thờ nhỏ, với bài vị có 4 chữ “Đại thụ linh thần”. Bàn thờ có bát hương, hàng ngày hương nghi ngút cháy, và chân hương bao giờ cũng chật ních, màu đỏ xen lẫn màu xám của tàn hương. Lại có bình hoa, thường thấy cắm mấy bông huệ, mùi thơm huyện với mùi hương theo gió loan tỏa ra. Hai bên mé bàn thờ là những bình vôi không biết của ai mang tới đặt ở đấy, to nhỏ đủ hạng, vôi ở miệng bình đã khô, và nhiều bình vôi màu trắng đã ngã sang một màu khác, màu tro nhạt hoặc màu xám.
Và cả ở những rể cây cũng lủng lẳng treo những bình vôi, mỗi cơn gió mạnh lai đưa đi đưa lại, các cụ bảo đêm hôm trông như những chiếc đầu lâu của bọn giặc. Cờ Đen khi bị giết và bị bêu đầu.
Ở bàn thờ, còn có mấy đài rượu, mấy trăm vàn hoa ngũ sắc, và ở bên cạnh có treo những đôi hài xanh đỏ, những chiếc nón chóp, nón thượng bằng giấy trắng hoặc giấy màu với những quai tua sặc sỡ. Đấy là những nón của các bà, các cô, các cậu trú ngụ tại cây đa.
Gặp những ngày có gió, gió rung lá đa, gió lùa vào những cành đa rít lên những tiếng hú, đêm khuya nghe rất ghê tợn. Rồi những lá vàng rụng xuống, lác đác, lạnh lùng như tiếng thì thầm của những âm hồn đang cùng nhau to nhỏ ở các cành đa.
NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ CÂY ĐA ĐẦU LÀNG
Theo lời các cụ, những đêm khuya thanh vắng có các bà, các cô đánh võng trên cành cây, tiếng kẽo cà kẽo kẹt vang đi rất xa, lại có bà vừa đánh võng vừa ru con, tiếng hát véo von thật là thánh thót. Có cụ nói rằng, áo các bà xanh đỏ lờ mờ ẩn hiện những đêm sáng trăng xuống. An đi đêm về, bắt gặp các bà các cô đánh võng đều phải nín thở cắm cổ chạy cho mau. Lại có người bảo,sáng sớm, những người đi làm đồng hoặc đi chợ qua gốc đa, có khi gặp bóng hai ba cô áo màu tha thướt tóc vấn đuôi gà, tung tăng đi từ cổng làng đến gốc đa thì biến mất.
Nghe nói mà rợn gáy ! Thủa nhỏ, tôi không bao giờ dám đi qua gốc đa vào lúc chạng vạng tối, hoặc khi trời mưa sáng hẳn và cũng không bao giờ, khi có việc đi qua đầu làng tôi lại dám dừng chân đứng lại nơi này. Phải qua đó là tôi rảo cẳng bước cho mau. Còn khi tôi đã lớn, ra tỉnh và Hà Nội ở, thỉnh thoảng có dịp về làng cũng rất ít khi tôi đi qua nơi đây vào lúc tối trời. Có một đôi lần qua đó, chỉ thấy âm u vắng vẻ với một sự yên lặng tịch mịch đến lạnh người. Gió đồng nổi lên, lá trên cây xào xạc, mùi hương lẫn mùi hoa huệ ở bàn thờ đưa ra thoang thoảng giữa gió khuya.
Đêm khuya, nếu có tiếng chó cắn nhát gừng về phía đầu làng, trong nhà các cụ bảo các con :
- Các bà các cô đi lại thăm làng!
Cây đa đầu làng cứ xanh tốt và sự hãi hùng của dân làng vẫn tồn tại đời này qua đời khác đối với những câu chuyện đã được kể lại về cây đa, về những ông bình vôi, về bàn thờ và nhất là về các bà, các cô, các cậu …
Dân làng hãi hùng nhưng dân làng vẫn kính cẩn không ai dám buông một lời nhạo báng, và cũng chẳng ai bảo ai là mê tín dị đoan.
Những ngày rằm, mồng một, những ngày lễ lạt, nếu người ta có cúng lễ ở nhà, nếu người ta có lên lễ chùa, thì ở gốc đa này, nơi bàn thờ cũng có nhiều bà nhiều cô trong làng mang đồ tới lễ bái. Những hôm đó, quang cảnh gốc đa đỡ vắng vẻ âm u.
Cây đa đầu làng, thường làng nào cũng có, và có lẽ cây đa nào cũng tương tự giống nhau. Ca dao ta có nhắc tới cây đa :
Đầu làng có một cây đa
Cuối làng cây cậy, ngã ba cây dừa
Dù anh đi sớm về trưa
Xin anh nghỉ bóng mát cây dừa nhà em.
Bóng mát cây dừa có lẽ có người đi sớm về trưa dừng chân nghỉ cho đỡ mệt nhất là trai gái làng, còn bóng mát cây đa, quả thật ở làng tôi, tôi không thấy mấy ai dừng chân nghỉ bước ! Qua đấy người ta ngả nón đi cho mau, và ngày xưa người ta còn cưỡi ngựa, tôi còn được nhắc lại là người ta vẫn xuống ngựa dắt đi qua bàn thờ hẻo lánh này. Hẻo lánh vì cây đa ở đầu làng ngoài lũy tre xanh, hẻo lánh vì tuy gọi là đầu làng, nhưng khi đi khỏi cổng làng chưa phải là có nhà cửa dân làng ngay, hai bên đường làng ở nơi đây, còn có mấy ao cá, mấy vườn cây vắng vẻ.
ÔNG BÌNH VÔI
Ở trên có nói tới các bình vôi đặt ở gốc đa bờ giếng cũng như gốc đa đầu làng.
Đây là phong tục dân quê.
Dân Việt Nam thường ăn trầu, và mỗi miếng trầu gồm có một miếng lá trầu không, có vệt chút vôi cuộn tròn lại, công việc này gọi là têm trầu, một miếng cau, một miếng vỏ cây.
Do sự ăn trầu của toàn dân Việt Nam trước đây nên mỗi nhà đều có một bình vôi, và tục còn cho rằng bình vôi tượng trưng cho quyền nội tướng của bà nội trợ nên được gọi tên là “ông bình vôi. Bình vôi đựng vôi, vôi trên mép khô dần vì mỗi khi lấy vôi ra nhiều, người ta lại quệt vào mép bình. Sau một thời gian, miệng bình vôi nhỏ dần, cho đến ngày bị lấp hẳn và bình vôi không dùng được nữa.
Bình vôi nầy, người ta không đem vứt đi, vì xưa nay vẫn được tôn trọng là ông bình vôi, mà người ta đem đặt tại miếu thờ, tại gốc đa, gốc si, gốc đề, nơi có thờ hoặc tại bên các đền chùa.
Do đó, các cây đa đầu làng, dân làng thường mang những bình vôi cũ tới để và có người lại đem buộc hẳn lên các rễ cây đa treo lủng lẳng.
LŨY TRE LÀNG
Cây đa cách lũy tre làng đến ngoài chục thước, những cây tre ngả đầu xuống, những cành đa như vươn tay ra, đôi bên cũng còn cách nhau một quãng khá xa.
Lũy tre làng tôi giống bất cứ lũy tre làng nào, bao bọc chung quanh làng, hai rặng tre hai bên đi từ cổng đầu làng tới cổng cuối làng.
Tre già thì măng mọc, luôn luôn lũy tre lúc nào cũng xanh tốt, và chịu đựng đủ nắng mưa gió rét.
Tre mọc rất dày, lũy tre che chở cho làng. Bên trong lũy tre đôi nơi có ao cá, có vườn rau hoặc có khi một vài ngôi nhà không cách xa lũy tre làng là mấy.
Có những gia đình ở gần lũy tre, đất cát ăn liền tới lũy tre, những gia đình này đôi khi có người trổ một chiếc cổng gai để tiện đường ra ngoài ruộng, khỏi phải đi qua cổng làng. Chiếc cổng gai này, ban ngày tuy mở nhưng ban đêm bao giờ cũng đóng kín để đề phòng bọn đạo tặc.
Nếu ai có dịp đi qua cánh đồng nhìn vào làng tôi gặp lúc chiếc cổng tre giương lên, một cô gái làng chít khăn mỏ quạ, mặc áo cánh nâu non, yếm mỡ gà với khuôn mặt trái xoan, với hai con mắt long lanh sáng, điểm thêm nụ cười chúm chím như hoa hàm tiếu, tuy vậy cũng để lộ mấy chiếc răng cửa đen nhức như hạt huyền và đều đặn như hạt lựu giữa đôi môi tươi thắm, ắt phải có cảm tưởng như được ngắm một bức tranh sinh động giữa thiên nhiên. Cô gái làng có thể đang đứng bên cột tre, một tay giơ cao vịn vào cành tre. Cô đứng làm gì?
Ai có biết, nhưng nhìn cô đáng yêu với vẻ ngây thơ. Có khi cô lại cất tiếng hát vài câu ca dao, tiếng vang êm ái nghe thật quyến rũ.
Chẳng tham ruộng cả ao sâu
Tham vì anh Tú tốt râu mà hiền;
Chẳng tham ruộng cả ao liền
Tham vì cái bút cái nghiên anh Đồ.
Hỡi ai là anh Tú, hỡi ai là anh Đồ, nghe cô ca lòng có động lòng chăng ta!
Cô gái quê quả thật là bông hoa của đồng ruộng!
Cô đã làm cho bao chàng trai say mê, và chính cô cũng đã từng bao lần tơ lòng rung động trước nỗi niềm tha thiết của những chàng trai làng!
Chiếc cổng ở giữa lũy tre, thường là chiếc cổng tán cho nên lúc đóng mở không phải đẩy ra đưa vào, mà phải giương lên hạ xuống. Cả chiếc cổng là một khung tre, có những cành tre buộc chặt níu vào thành khung, giữa khung theo chiều ngang là một thanh tre nguyên ống để giữ cho khung cổng được chắc chắn.
Chiếc khung tre này hình chữ nhật, to bằng chiếc cổng gỗ với cả hai cánh, phía trên, được buộc vào một thanh tre ngang, buộc không chặt lắm, nhưng cây chắc để cổng có thể giương lên hạ xuống dễ dàng. Cổng giương lên có chiếc cột đỡ, chiếc cột tre đóng chắc vào giữa thành mé dưới cổng và cao bằng chiều dọc cổng. Khi cổng hạ xuống, cột tre này được lồng vào một chiếc cọc đóng dưới đất qua một lỗ dục suốt thân cột để giữ cho người ở mé ngoài không thể tự mở lấy cổng được.
Thường thường ban đêm, có thêm những cành tre gai đắp vào cổng cho cổng thêm chắc chắn. Chiếc cổng tre tuy đơn sơ nhưng rất đắc dụng và kẻ gian phi cũng không phải dễ dàng gì mà lọt qua được cổng này.
CÁNH ĐỒNG LÀNG
Cô gái quê đứng trước chiếc cổng tăng vẻ đẹp cho lũy tre làng, và ở nơi đây nhìn ra cô thấy cánh đồng bát ngát, những thửa ruộng nối liền những thửa ruộng, tùy theo từng tháng trong năm đây là những thửa ruộng lúa đã chín vàng, cây lúa bông nặng trĩu ngả đầu xuống bờ ruộng, hoặc đây là những ruộng mạ mới cấy, mạ xanh mơn mởn như tơ nõn. Theo những luồng gió, hương lúa hương mạ mát dịu hoặc thơm phức bốc lên. Trên không trung vài con cò trắng vụt bay qua, rồi bỗng sà xuống một thửa ruộng giữa cánh đồng.
Xa xa, vút tầm mắt, một ngôi làng với lũy tre xanh bao bọc, như một chiếc cù lao nổi bật trên đồng ruộng.
Cảnh một làng quê Việt
Ruộng nương... Thật là linh hoạt, và quang cảnh vui tươi. Không một chút gì giống những đồng lầy đất nước chúng ta. Ở đây, mỗi mẫu đất ẩm thấp đều được trồng trọt, chăm nom và có người. Trong khoảng không đầy một mẫu đất, có thể đếm được tới trăm chiếc nón chớp của dân làng. Khắp mọi chỗ, người dân quê đều làm việc, gập mình xuống, cấy lúa. Hoặc hái trong tay, họ gặt lúa. Nơi khác, họ đang cày ruộng, đi sau những con trâu. Lại có những con trâu khác nghỉ ngơi, đầm mình trong nước sâu hơn chỉ lòi lên những chiếc đầu với sừng và mình đen, ở trên ngồi chồm hỗm một chú bé trần truồng. Thỉnh thoảng một đàn cò trắng vụt bay lên. (1)
Tác giả tả cánh đồng một làng quê Việt
Cánh đồng làng nào mà chẳng vậy, bao giờ chẳng có người làm đồng, bao giờ không có mấy chú bé chăn trâu, và nhất là những đàn cò trắng, đồng quê ở đâu mà không có!
Làng tôi nằm trong lũy tre xanh, giữa cánh đồng bát ngát.
SÔNG LÀNG
Làng tôi lại có một con sông, không phải, đúng ra là một con ngòi nhỏ. Con ngòi này, chỉ rộng hơn một con kênh, không chảy qua làng, chỉ lượn qua cánh đồng làng như muốn đem làn nước bạc tương phản với lúa xanh xanh.
Con ngòi tuy nhỏ nhưng rất có ích cho làng tôi. Đồng ruộng nhờ nó thêm màu mỡ, và dân làng, nhiều gia đình sống thêm về nghề kéo vó, đánh cá ở dòng ngòi. Một vài người, tuy có nhà đất ở trong làng, nhưng vì đặt lờ, đặt lưới, giương vó đêm đêm ở con ngòi, lại có thêm ruộng nương ở bên kia ngòi, đã cất hẳn một ngôi nhà lá ở bờ ngòi để tiện việc làm ăn. Và mỗi lần, đi qua ngòi, họ đi qua một chiếc cầu khỉ rung rinh soi mình ngoằn ngoèo trên dòng nước.
Không ở trong làng nhưng họ vẫn là người làng, họ vẫn sống theo nếp sống của dân làng. Họ vẫn đi lễ chùa làng, tham dự những tuần sóc vọng ở đình làng, và gặp ngày phiên chợ làng, vợ con họ vẫn có mặt để bán hoa màu hoặc để mua sắm những vật dụng cần thiết như những người khác trong làng.
Con cái họ vẫn đi học trường làng, và ngày xửa ngày xưa khi làng còn có các ông đồ dạy học, chính họ cũng đã là học trò của những ông đồ này.
CHỢ LÀNG
Tôi đã nói đến chợ làng tôi! Chợ làng tôi không to lắm, cũng không ở hẳn trong làng mà ở ngoài lũy tre xanh, bên cạnh đường làng. Chợ có một quán chính năm gian, còn la liệt ở chung quanh là những ngôi lều tranh nhỏ, rộng không quá hai thước vuông.
Cũng như các chợ khác, chợ làng tôi họp một tháng sáu phiên, cách bốn ngày lại đến ngày phiên chợ. Sở dĩ như vậy, vì ở vùng tôi có nhiều làng có chợ, phiên họp phải xích ngày đi để khỏi trùng nhau đến nỗi hai chợ cùng họp một ngày.
Ngày phiên chợ làng tôi vui lắm. Trong làng ai có hoa màu gì muốn bán đều mang ra chợ, cũng như ai đan được ít rổ, rá, bện được ít chổi lúa, phất trần, hoặc làm thêm được bất cứ thức gì trong phạm vi tiểu công nghiệp gia đình đều mang ra chợ bán, hoặc có ai nuôi được lứa gà, lứa vịt đã lớn, hoặc nhà ai có đàn chó con mới đẻ, cần bán bớt, họ cũng đều nhân phiên chợ này mà tiêu thụ đi.
Lại các người buôn thúng bán bưng, các cô hàng xén, cứ đúng ngày phiên là có mặt ở chợ làng tôi. Những người làng trên xã dưới, có hàng hóa gì họ cũng mang tới chợ để bán, rồi mua đổi lấy những đồ ăn thức dùng khác.
Đường làng ngày phiên chợ thật đông, tác giả L’Indochine en Ziggzags, ông Billotey đã tả quang cảnh này, không biết có phải đúng vào phiên chợ làng tôi không.
Trên chính con đường, cả một đoàn người nối đuôi nhau đi. Phải chăng họ từ phiên chợ trở về, những người dân quê gánh nặng và đông đảo ấy? Họ bước thoăn thoắt vội vàng, chiếc đòn gánh tre trên vai có lủng lẳng thõng xuống như hai đĩa cân, hai rổ sảo giống như hai chiếc ly hoặc, những thúng mủng. Trong những thúng, mủng này chồng chất nghìn thứ khác nhau, thóc, gạo, chuối, rau cỏ, hạt, cau, trầu, rơm, nồi đất buộc rất tài tình và nhiều thứ khác nữa.(2)
Có lẽ đấy là trên đường làng trong ngày phiên chợ làng tôi, nhưng cũng có thể là trên đường một làng khác trong một ngày phiên chợ khác!
Thì đã nói các làng quê giống nhau mà ! Giống nhau về hình thức đã đành, mà còn giống nhau về sinh hoạt nữa.
Toan Ánh
Các tin liên quan:
- Làng gốm Bát Tràng (24-09-2008)
- Nghề gốm cổ truyền Việt Nam (16-09-2008)
- Đèn kéo quân vui hội đêm Rằm tháng Tám (09-09-2008)
- Đền Đô với tám triều Vua Lý (29-08-2008)
- Sợi rơm vàng (18-07-2008)
- Quà quê (15-07-2008)
- Hát Xoan, hát Ghẹo (02-07-2008)
- Đình làng - Gương mặt kiến trúc Việt cổ (17-06-2008)
- Cò trắng trên đồng (23-05-2008)
- Thổ cẩm (20-05-2008)
Cập nhật 27-03-2008