Phương tiện giao thông
Đò. Thuyền nhỏ, dài, mũi nhọn, không có buồm, có 1-2 khoang, thường do một người chèo. Giao thông ở sông. Đò đi theo dòng nước là đò dọc, đò chở khách qua sông gọi là đò ngang. Phổ biến ở Bắc, Trung Bộ. Đặc biệt Huế có hò chèo đò trên sông Hương. Hình ảnh con đò qua sông thường chỉ con gái đi lấy chồng. Ca dao : “Sông Ngâu, sông Cả, sông Đào. Ba con sông ấy đổ vào sông Thương. Con sông sâu nước dọc đò ngang. Mình về bên ấy, ta sang bên này... Đương cơn nước lớn đò đầy. Hò Huế: “Đò từ Đông Ba, đò qua đập đá. Đò về Vĩ Dạ, thắng Ngã ba sình...”
Đò dọc đò ngang (Dân ca). Điệu chèo đò. Khoan hỡi hò khoan. Em lái con đò ngang, anh sang con đò dọc. Anh lái con đò dọc, em chở con đò ngang. Mái ta một dòng, khoan hỡi hò khoan. Sao không đồng lòng, mang tiếng hoài trông. Nghe anh một lần, khoan hỡi hò khoan. Ta xe chỉ hồng, Kết nghĩa được chăng? Khoan hỡi hò khoan. Khoan khoan hỡi hò khoan. Ta nên vợ chồng, khoan hỡi hò khoan. Mai kia đầy đàn, con cháu thiệt đông. Khoan hỡi hò khoan. Khoan khoan hỡi hò khoan. Ta nên vợ chồng, khoan hỡi hò khoan.
Cáng. Phương tiện vận chuyển, đầu tiên xuất hiện ở đất kinh kỳ. Gồm một cái võng bằng sợi gai đan hình mắt lưới và một cái đòn tre dài (hai người khiêng), trên phủ chiếu hoa hoặc một vài lá vải che nắng. Quan to ngồi võng trần (nhuộm điều, không phủ chiếu hoa), che lọng vàng (lọng nhiều hay ít, màu sắc tuỳ theo phẩm trật người được võng), lính đi trước gọi loa cho hai bên hàng phố đứng dậy chào, một tốp lính khác đi sau đeo gươm, đeo túi đựng roi, cắp tráp, xách điều ống, ống nhổ và giá đỡ võng. Lính hầu đều là lính lệ, đội khăn, mặc áo the thâm, quần xắn ống thấp ống cao, thắt dây lưng điều bỏ múi một bên. Quan nhỏ không có lính đi theo, ngồi võng thường, chỉ che một, hai lọng đen. Đỗ tiến sĩ, được vua ban võng điều, lọng tía, về quê vinh quy bái tổ. Cả vợ cũng được che lọng. Ca dao: Võng anh đi trước, võng nàng theo sau.
Đi kheo. Đi trên bàn đạp lưng chừng giữa hai cây gậy mà người đi biển cần vượt cao hẳn con nước triều để dò bắt hải sản. Có ba loại: tiểu, trung, đại. Loại đại có khi nâng bàn chân cách mặt đất tới 3-4m. Vào lễ hội, người đi kheo ăn mặc đẹp, khăn thắt đầu rìu, thắt lưng ba múi biểu diễn những động tác khó nhất. Có khi hề kheo cao lớn như bà Nữ Oa, váy dài 4-5m.
Các tin liên quan:
- Tranh Hàng Trống (31-12-2008)
- Chợ quê (30-12-2008)
- Ẩm thực dân gian (30-12-2008)
- Kiến trúc và nhà ở (16-12-2008)
- Chợ vùng cao (16-12-2008)
- Hò và ví (16-12-2008)
- Các trò chơi con trẻ (15-12-2008)
- Hội mùa Thu (08-12-2008)
- Trang sức của phụ nữ Việt cổ (06-10-2008)
- Kiến trúc và nhà ở (29-09-2008)
Cập nhật 15-10-2007