Xin Ngài đánh giá quan hệ Việt Nam-Đức trên các mặt chính trị, kinh tế và văn hóa trong thời gian qua?
Thoát khỏi gánh nặng trong quá khứ, mối quan hệ giữa hai nước chúng ta đã được xây dựng trên những thập kỷ của hợp tác kinh tế, khoa học và văn hóa. Năm 1975, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Liên bang Đức. Tuy nhiên, khi chúng ta kỷ niệm 30 năm mối quan hệ này chúng ta không quên rằng đã từng có mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân Đức và nhân dân Việt Nam trước đây. Nhiều thanh niên Việt Nam đã học tập và làm việc tại các thành phố của Đông Đức như Dresden, Leipzig và Magdeburg ngay từ đầu những năm 1950. Trong những năm 1960 trên đường phố ở nhiều thành phố của Tây Đức như Frankfurt và Tây Berlin, những đoàn biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam đã hô to "Hồ-Hồ-Hồ Chí Minh". Tuy nhiên, trong thời gian này, Đức và Việt Nam đều bị chia cắt và môi trường chính trị đã không cho phép hai nước có mối quan hệ bình thường. Thế rồi tất cả đã thay đổi sau đó và với quá trình đổi mới và cải cách diễn ra ở mỗi nước, mối quan hệ đối tác giữa chúng ta đã vươn tới đỉnh cao chưa từng có.
Thủ tướng Đức Helmut Kohl và Gerhard Schroeder đã sang thăm Việt Nam năm 1995, 2003 và 2004.
Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải đã có chuyến thăm Đức năm 2001, và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thăm Đức năm 2004.
Về thương mại song phương, trong những năm 1980, kim ngạch thương mại song phương đạt trung bình 20 triệu Euro năm và vượt ngưỡng 2 tỷ Euro vào năm 2004. Các công ty của Đức như Mercedes Benz, Siemens và Metro đã tạo ra nhiều việc làm. Các công ty này cam kết góp phần vào phát triển kinh tế Việt Nam, điều này cũng phù hợp với vai trò của Đức như là một nhà tài trợ lớn với các dự án phát triển với tổng trị giá 900 triệu USD kể từ năm 1990. Tôi thực sự vui mừng thấy rằng chúng ta có thể tăng số sinh viên học tiếng Đức và số sinh viên Việt Nam học tại các trường đại học ở Đức.
Nói tóm lại, đối với Đức, Việt Nam là một đối tác đặc biệt ở Đông Nam Á cũng như đối với Việt Nam, Đức là một đối tác đặc biệt ở châu Âu. Chúng ta có nhiều điểm chung. Những điểm nào còn khác biệt thì chúng ta có thể bổ xung cho nhau.
Theo Ngài, đâu là thuận lợi và khó khăn trong phát triển quan hệ giữa hai nước thời gian tới?
Tôi cho rằng có thể có một thách thức đối với việc đưa mối quan hệ đối tác của chúng ta sang một kỷ nguyên mới. Việt Nam và Đức đang trải qua những cải cách có ý nghĩa. Kết quả của nó sẽ có vai trò to lớn đối với việc phát triển kinh tế mạnh hơn nữa ở cả hai nước. Việt Nam thu được nhiều kết quả từ cuộc cải cách thành công, còn Đức sẽ bị mất mát nhiều nếu tiến hành cải cách không đầy đủ. Trong một chừng mực nào đó, chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau về những gì cần làm để cải cách thành công. Trong một phạm vi lớn hơn, tôi cho rằng, mỗi bên phải làm tốt phần việc của mình. Để làm được điều đó, chúng ta không tự cô lập mình, nhưng chúng ta cũng không để mất lợi ích riêng của mỗi nước. Quan hệ đối tác giữa chúng ta cần được vun đắp. Mỗi bên phải góp sức vào làm cho nó có nhiều ý nghĩa. Trong khi đó, mối quan hệ của chúng ta trong quá khứ chủ yếu là quan hệ do nhà nước chi phối, nhưng ngày nay chúng ta phải thu hút thêm nhiều đối tượng tham gia. Chúng ta cần có sự tham gia tích cực nhiều hơn của các tầng lớp xã hội, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Tôi tin tưởng và cam đoan rằng sức mạnh và tính bền bỉ của cả người Đức và người Việt Nam sẽ giúp chúng ta vượt qua được thách thức đó. Chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn đó trước và cùng nhau hợp sức mở ra những triển vọng cho một tương lai xán lạn hơn.
Thưa Ngài, cộng đồng người Việt Nam tại Đức có vai trò như thế nào trong việc thúc đẩy quan hệ Việt-Đức?
Với khoảng 100.000 người, cộng đồng người Việt Nam là một cộng đồng bên ngoài châu Âu lớn nhất ở Đức. Đại đa số họ đã hòa nhập tốt vào xã hội Đức. Với các doanh nghiệp và nhà hàng của mình, họ đã có đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng GDP ở địa phương. Tuy nhiên, theo tôi, họ còn có thể đóng góp được nhiều hơn nữa.
Tất nhiên, họ vẫn còn có những mặc cảm, và sự mặc cảm đó vẫn hạn chế vai trò chủ động tích cực của cộng đồng người Việt ở Đức trong việc tăng cường mối quan hệ đối tác giữa hai nước. Về phương diện lịch sử, không như Việt kiều ở Pháp hay Mỹ, Việt kiều ở Đức nhập cư vào Đức trong những thời gian khác nhau. Cho nên họ thiếu sự thống nhất. Đối với thế hệ trẻ, tôi nghĩ đã đến lúc tất cả mọi người trong cộng đồng Việt Nam cần hợp tác lại. Tôi tin chắc rằng sự chuyển đổi thế hệ cũng sẽ đưa lại nhiều sự quan tâm hơn đến việc tận dụng những cơ hội kinh tế ở Việt Nam. Điều đó sẽ giúp cải thiện vị trí của Đức như là một nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
Ngài có nhận xét gì về công cuộc đổi mới mà nhân dân Việt Nam đã và đang thực hiện? Ấn tượng sâu sắc nhất của Ngài trong thời gian Ngài công tác tại Việt Nam là gì?
Như những cuộc cải cách gần đây ở Đức, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã tạo ra những cải thiện tích cực cho đất nước. Tăng trưởng kinh tế, tăng việc làm, tỷ lệ nghèo đói giảm - tuy đó chỉ là một số chỉ số được nêu ra - nhưng đó là những bằng chứng thực tế cho thấy chính phủ Việt Nam đã làm rất tốt. Tuy nhiên, cũng như ở Đức, đổi mới chỉ mới bắt đầu. Nếu không tiếp tục đổi mới hay tiếp tục cải cách ở nhịp độ cần thiết, thì cũng có nghĩa là đặt những gì đã đạt được vào tình trạng bị lâm nguy. Cải cách hành chính công, quản lý bằng pháp luật và chống tham nhũng là những thách thức còn ở phía trước.
Cần có sự dũng cảm và khí thế mới để thực hiện những cải cách này, tôi tin chắc rằng chính phủ đã biết cần phải làm gì.
Về ấn tượng sâu sắc nhất, tôi phải nói ngay về sự năng động của người Việt Nam. Đó là điều mà tôi không thể không ngưỡng mộ. Những dòng xe máy hối hả trên đường phố Hà Nội là biểu tượng của sự siêng năng, sức mạnh và lạc quan, và với những phẩm chất đó, Việt Nam đang hướng tới một tương lai thịnh vượng hơn.
Xin cảm ơn Ngài.




