PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT
- Phong trào Không liên kết (KLK) có 120 thành viên (53 nước châu Phi, 26 nước châu Mỹ La tinh, 37 nước châu Á,1 nước châu Âu, 3 nước châu Đại dương), chiếm gần 2/3 tổng số thành viên Liên hợp quốc, khoảng 51% dân số thế giới. Đồng thời Phong trào có 15 nước và 11 tổ chức quốc tế là quan sát viên. Bên cạnh đó, tại các Hội nghị, nước Chủ nhà có thể mời thêm một số khách mời.
- Phong trào KLK cũng là nòng cốt của G77 (là nhóm kinh tế của các nước đang phát triển): tất cả các thành viên của KLK (trừ Bê-la-rút và U-dơ-bê-ki-xtan) đều là thành viên của G77, chiếm tuyệt đại đa số trong tổng số 130 thành viên của G77.
I. MỘT SỐ NÉT VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
1. SỰ RA ĐỜI CỦA PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT
Phong trào Không liên kết là một xu hướng mới, một tập hợp lực lượng đặc biệt ra đời trong cao trào giải phóng dân tộc và trong bối cảnh Chiến tranh lạnh có nguy cơ dẫn đến chiến tranh thế giới mới. Thắng lợi của lực lượng chống phát xít, đặc biệt là thắng lợi của Liên Xô đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa phát xít, mở ra một thời kỳ mới của nhân loại với sự hình thành hệ thống chủ nghĩa xã hội và phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, đặc biệt ở châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh. Các nước độc lập non trẻ có sự đa dạng về văn hoá tín ngưỡng, chế độ chính trị- xã hội và lợi ích dân tộc, nh¬ưng có chung đặc điểm đều đã bị thực dân đô hộ và có nền kinh tế kém phát triển. Trong bối cảnh đó, để tránh bị cuốn hút vào cuộc chạy đua vũ trang, rơi vào vòng ảnh hưởng của phương Tây, các nước này có nhu cầu chung trong việc đoàn kết trong một tập hợp lực lượng rộng rãi giúp nhau giữ gìn độc lập, từng bước giành độc lập kinh tế, bảo vệ hoà bình thế giới để tồn tại và phát triển.
Xu hướng không liên kết bắt đầu từ nhóm nước châu Á mà đại biểu là Thủ tướng Ấn Độ Nê-ru. Năm 1946, Nê-ru tuyên bố Ấn Độ cùng các nước độc lập châu Á sẽ đi theo đường lối không dính líu, chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, không nhường quyền phán quyết về vấn đề quốc tế cho bất cứ ai. Tháng 3/1947 và 1/1949, Thủ tướng Nê-ru đã triệu tập hai Hội nghị châu Á tại Niu Đê-li thúc đẩy chính sách này. Tháng 4/1954, Thủ tướng 5 nước Ấn Độ, Miến Điện, In-đô-nê-xi-a, Pa-ki-xtan và Xri Lan-ca họp tại Cô-lôm-bô và quyết định triệu tập một Hội nghị các quốc gia độc lập Châu Á và Châu Phi trong năm 1955. Sau đó 5 nước lại gặp nhau tại Bô-go (12/1954) và quyết định Hội nghị Á-Phi sẽ họp tại thành phố Băng-đung của In-đô-nê-xi-a từ 18 đến 24/4/1955. Trong giai đoạn chuẩn bị, đã diễn ra một loạt cuộc tiếp xúc ngoại giao quan trọng của Thủ tướng Nê-ru với Tổng thống Na-xơ (Ai Cập), Tổng thống Ti-tô (Nam Tư), đặc biệt với Thủ tướng Chu Ân Lai (Trung Quốc) và trên cơ sở đó Ấn Độ và Trung Quốc ra Thông cáo chung nêu lên 5 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau, về sau được gọi là 5 nguyên tắc chung sống hoà bình (Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; Không xâm lược lẫn nhau; Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; Bình đẳng và hai bên cùng có lợi; Cùng tồn tại hoà bình). Hội nghị Băng-đung 1955 được tổ chức tại In-đô-nê-xi-a với sự tham gia của 29 nước Á-Phi, trong đó có 23 nước Châu Á và 6 n¬ước Châu Phi. Đoàn đại biểu Chính phủ ta do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Hội nghị đã thông qua 10 nguyên tắc Bangdung lịch sử (Phụ lục kèm theo), khẳng định nguyện vọng đoàn kết chống chủ nghĩa thực dân, đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, chung sống hoà bình giữa các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau.
Trong bối cảnh sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc đầu những năm 1960, các Tổng thống Ai Cập, Nam Tư¬, In-đô-nê-xi-a năm 1961 đã gửi thư chung cho nguyên thủ 21 nước đề nghị tổ chức một hội nghị các nước KLK. Và để chuẩn bị, Hội nghị trù bị Cai-rô (6/1961) đã soạn thảo 5 tiêu chuẩn thành viên của Phong trào KLK bàn về vai trò và chính sách của phong trào KLK trong tương lai trong đó có việc khẳng định sự trung thành đối với chính sách “không cam kết” nh¬ư là một biện pháp xử lý tích cực các vần đề mà thế giới đang gặp phải (về từ ngữ, cụm từ “không liên kết” chỉ được sử dụng chính thức từ Hội nghị cấp cao Cai-rô 1964). Ngày 1/9/1961 Hội nghị các vị đứng đầu nhà nước và chính phủ các nước KLK tại Ben-gờ-rát, Nam Tư với 25 nước thành viên đã chính thức khai sinh ra Phong trào không liên kết.
2. MỘT SỐ NÉT VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
*1961-1964: Giai đoạn thành lập. Phong trào thể hiện sự hấp dẫn ban đầu, thu hút nhiều thành viên mới (năm 1964, Phong trào tăng từ 25 lên 47 thành viên, 10 quan sát viên) và đã có những đóng góp tích cực nhất định vào cuộc đấu tranh cho hoà bình, chống âm mưu gây chiến và lập liên minh quân sự, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, ủng hộ các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (An-giê-ri, Tuy-ni-di, Ăng-gô-la, Pa-le-xtin và các nước Nam Châu Phi). Nhưng cũng có xu hướng muốn hướng Phong trào đi vào con đường thoả hiệp với chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân bằng quan điểm đứng giữa 2 khối, không có lập trường rõ ràng trong những vấn đề đấu tranh gay gắt nhất đang diễn ra giữa chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc đang đấu tranh (ví dụ, không lên án xâm lược của Mỹ mà coi vấn đề Việt Nam chỉ là vấn đề của một đất nước bị chia cắt).
*1964-1969: Giai đoạn khủng hoảng. Phong trào trì trệ và chia rẽ, không tổ chức được Hội nghị Cấp cao (dự kiến vào năm 1967) và hầu như không có hoạt động gì đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là do các thế lực phản động gây chiến tranh ở nhiều nơi, mâu thuẫn Xô-Trung bộc lộ gay gắt, các nước KLK chủ chốt gặp khó khăn, Phong trào bị phân hoá. Phong trào chưa có tiếng nói ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam mà trái lại có nhóm nước cơ hội, được Mỹ ủng hộ đã ra “lời kêu gọi” 17 nước về vấn đề Việt Nam trong đó yêu cầu “thương lượng không điều kiện” và sau đó đã ba lần vận động tổ chức Hội nghị KLK về vấn đề Việt Nam nhưng đều thất bại.
*1970-1989: Giai đoạn trưởng thành. Cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống xâm lược và sự ra đời của một loạt các quốc gia độc lập dân tộc, Phong trào chuyển từ chia rẽ sang thống nhất mục tiêu chung là đấu tranh cho độc lập dân tộc, hoà bình, an ninh quốc tế và trật tự kinh tế quốc tế mới. Phong trào đã xác định nhất quán đối tượng đấu tranh là chủ nghĩa đế quốc, thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Trong cuộc đấu tranh này, do cùng mục tiêu phấn đấu, Phong trào đã tìm được đồng minh tự nhiên là Liên Xô và các nước XHCN. Sự phối hợp giữa Phong trào và các lực lượng tiến bộ đã chuyển thành sức mạnh đa số tại LHQ, giúp thúc đẩy thông qua một loạt các nghị quyết, công ước với nội dung tích cực, trong đó có Tuyên bố về trật tự kinh tế quốc tế mới của ĐHĐ LHQ năm 1973. Phong trào đã ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam từ năm 1970, mời tham dự quan sát viên và kết nạp chính thức Việt Nam vào năm 1976.
*1989- nay: Khẳng định lại vị thế trong tình hình mới. Trong giai đoạn đầu (1989-1992) Phong trào gặp khó khăn nhất định trong việc xác định lại mục tiêu hoạt động khi thế giới không còn hai cực. Tuy nhiên, các nước đang phát triển tiếp tục đứng trước nguy cơ can thiệp và áp đặt có hại cho độc lập chủ quyền và quyền lợi của mình. Do đó, các nước đang phát triển tiếp tục có nhu cầu phối hợp bảo vệ lợi ích quốc gia và phát triển của mình. Kể từ Hội nghị cấp cao 10 (In-đô-nê-xi-a, 1992) các nước đều nhất trí là Phong trào tiếp tục đóng vai trò không thể thiếu là: một tập hợp lực lượng chính trị hùng hậu, là diễn đàn quan trọng để các nước Không liên kết đang phát triển hình thành tiếng nói chung đối với các vấn đề toàn cầu quan trọng liên quan đến hoà bình, an ninh, giải trừ quân bị và phát triển phấn đầu vì hoà bình, phát triển, tự quyết dân tộc, độc lập và chủ quyền quốc gia, xây dựng trật tự thế giới mới, cải tổ và dân chủ hoá các tổ chức quốc tế, đặc biệt là LHQ. Phong trào đã tích cực tham gia đóng góp vào các các vấn đề chính trị quốc tế lớn như: Hội nghị Cấp cao Thiên Niên kỷ của LHQ 9/2000 với việc thông qua các Mục tiêu Thiên niên kỷ, Hội nghị Kiểm điểm Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân 5/2000, Hội nghị chống phân biệt chủng tộc Nam Phi 9/2001, Hội nghị Tài trợ cho Phát triển 5/2002, Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững 9/2002...trong đó Không liên kết luôn là lực lượng đi đầu đấu tranh bảo vệ và xây dựng các nguyên tắc tiến bộ trong hợp tác và đối thoại quốc tế, bảo vệ quyền lợi của đại đa số các nước đang phát triển.
3. CÁC HỘI NGHỊ CẤP CAO
Hội nghị Cấp cao Phong trào Không liên kết thường được tổ chức 3 năm 1 lần và luân phiên theo khu vực địa lý, với sự tham gia của các nước thành viên KLK. Số lượng thành viên KLK ngày càng tăng thể hiện phần nào sự phát triển và vị trí của KLK trong quan hệ quốc tế.
Hội nghị Ben-gờ-rát tháng 9/1961 có 25 thành viên chính thức; Hội nghị Cai-rô 1964, 47 thành viên; Hội nghị Lu-xa-ca 1970, 58 thành viên, Hội nghị An-giê 1973, 76 thành viên; Hội nghị Cô-lôm-bô 1976, 86 thành viên; Hội nghị La Ha-ba-na 1979, 95 thành viên; Hội nghị Niu Đê-li 1983, 101 thành viên; Hội nghị Ha-ra-rê 1986, 101 thành viên, Hội nghị Ben-gờ-rát 1989, 104 thành viên; Hội nghị Gia-các-ta 1992, 108 thành viên; Hội nghị Ca-ta-hên-na (Colombia) 1995, 113 thành viên; Hội nghị Đơ-ban 1998 (Nam Phi), 114 thành viên; Hội nghị Cu-a-la Lăm-pơ (Malaysia) 2003, 116 thành viên; Hội nghị La Ha-ba-na (Cu-ba) 2006, 118 thành viên; Hội nghị Cai-rô 2009 (Ai Cập) 118 thành viên; Hội nghị Tê-hê-ran 2012 (Iran), 120 thành viên.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ PHONG TRÀO
Nhìn lại lịch sử gần 50 năm qua, có thể thấy Phong trào đã kiên định các mục tiêu cơ bản của mình phấn đấu cho hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển; có đóng góp quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề trọng đại của thế giới. Nhưng chặng đường phát triển của Phong trào không phải lúc nào cũng bằng phẳng và luôn có cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng chính: một bên là khuynh hướng tăng cường đoàn kết nội bộ, mở rộng hợp tác với các lực lượng hoà bình và dân chủ đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề cơ bản của thời đại và một bên là một số xu hướng do dự, cơ hội, chịu tác động của các thế lực bên ngoài muốn lôi kéo, lái Phong trào đi chệch mục tiêu cơ bản làm suy yếu Phong trào.
Trong Chiến tranh lạnh, Phong trào KLK với những nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của mình, đã có vai trò và đóng góp quan trọng vào đời sống chính trị quốc tế nói chung và việc bảo vệ lợi ích đối với các nước đang phát triển nói riêng. Tình hình thế giới, thực tế, đã có những biến đổi sâu sắc theo chiều hướng tích cực nhờ có sự đoàn kết đấu tranh của các lực lượng hoà bình, độc lập và dân chủ mà Phong trào Không liên kết là một bộ phận. Phong trào đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh hạt nhân, đòi giải trừ quân bị và thành lập khu vực hoà bình và phi hạt nhân. Phong trào đã cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc, là lực lượng quan trọng trong cuộc đấu tranh đòi thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới và trật tự thông tin quốc tế mới. Phong trào có đóng góp đáng kể vào việc giải quyết tranh chấp và xung đột giữa các nước thành viên bằng biện pháp hoà bình.
Sau Chiến tranh lạnh, Phong trào, trong thời kỳ đầu, đã có những khó khăn nhất định trong việc xác định lại mục tiêu cho hoạt động của mình khi thế giới không còn hai cực. Tình hình hiện nay cho thấy các nước đang phát triển tiếp tục đứng trước nguy cơ can thiệp và áp đặt có hại cho độc lập chủ quyền và quyền lợi của mình. Do vậy các nước này tiếp tục có nhu cầu tham gia vào Phong trào để có một diễn đàn phối hợp với nhau, góp phần bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia và phát triển của mình, chống sự áp đặt của các nước lớn và chống sự bất bình đẳng trong quan hệ Bắc-Nam, để phối hợp lập trường chung tại LHQ và các diễn đàn quốc tế khác. Trong bối cảnh đó, phong trào KLK tiếp tục đóng vai trò không thể thiếu là một tập hợp lực lượng chính trị hùng hậu, là diễn đàn quan trọng để các nước không liên kết đang phát triển hình thành tiếng nói chung đối với các vấn đề toàn cầu quan trọng liên quan đến hoà bình, an ninh và phát triển.
Từ Hội nghị cấp cao 10 (In-đô-nê-xia 1992), Phong trào KLK đã có những bước điều chỉnh nhất định nhằm thích ứng với tình hình mới. Đặc biệt kể từ Hội nghị Cấp cao Không liên kết lần thứ 14 tại La Ha-ba-na, Cu-ba đã đánh dấu một bước tiến mới của Phong trào trong việc khẳng định lại các mục đích, nguyên tắc cơ bản của mình, đồng thời đề ra các định hướng, ưu tiên hoạt động của Phong trào trong giai đoạn quốc tế hiện nay cũng như cho nhiều năm tới.Việc Phong trào liên tục có thêm thành viên mới (tăng từ 108 kể từ Hội nghị Cấp cao 10 năm 1992 lên 120 thành viên ngày nay) đã tiếp tục thể hiện sức sống, sự hấp dẫn và khẳng định vai trò chính trị không thể thiếu của mình. Trong các năm gần đây, phong trào đã có nhiều hoạt động quan trọng nhằm tăng cường đoàn kết thống nhất về vai trò, phương pháp làm việc cũng như hợp tác theo hướng thực chất về kinh tế, văn hoá, y tế ... thông qua cơ chế tham khảo thường xuyên tại LHQ và các hội nghị quan trọng.
Bước sang Thế kỷ 21, các nước KLK và đang phát triển nói chung đang đứng trước những thách thức to lớn về phát triển kinh tế, phải đương đầu với những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Nhìn chung, các nước KLK vẫn phải tiếp tục đấu tranh giải quyết các vấn đề về đói nghèo, tình trạng bất ổn định về xã hội, xung đột sắc tộc tôn giáo, đối phó với chính sách cường quyền, xu hướng áp đặt và can thiệp của một số nước lớn, trong khi tiếp tục phấn đấu cho một trật tự thế giới mới công bằng dân chủ hơn, đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, phong trào cũng đang đứng trước nhiều thách thức: trình độ phát triển chênh lệch, nhu cầu đa dạng về phát triển và an ninh, xu hướng thực dụng về đối ngoại của nhiều nước thành viên... làm cho phong trào chưa có được tiếng nói chung về một số vấn đề toàn cầu. Sự khác biệt về quan điểm trong phong trào thể hiện trên các vấn đề có liên quan đến xung đột khu vực, giải trừ quân bị, cải tổ LHQ...cũng như các vấn đề về thủ tục, phương pháp làm việc của nội bộ phong trào. Trong nội bộ phong trào vẫn tồn tại một số xu hướng chính. Một là muốn tiếp tục kiên định các mục tiêu cơ bản, đồng thời tích cực tham gia đóng góp vào các vấn đề chính trị quốc tế lớn (Cu-ba, Ấn Độ, Việt Nam); Hai là muốn dừng ở mức hợp tác chung chung, chưa muốn bị ràng buộc vào một cơ chế cụ thể, cũng như tránh tạo cảm tưởng tập hợp lực lượng chống lại một bên nào; Ba là muốn có cách tiếp cận thực tiễn hơn trong hợp tác cả về chính trị, kinh tế, xã hội theo hướng tránh gay cấn với phương Tây và tiếp cận xây dựng hơn trên các vấn đề cải tổ LHQ (Nam Phi, In-đô-nê-xia). Trước mắt các nước Không liên kết đang dừng ở mẫu số chung là: tiếp tục khẳng định các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của Phong trào; đề ra định hướng, khuôn khổ hợp tác chung nhưng chưa đi sâu vào chi tiết; thống nhất quan điểm về cải tổ LHQ và trên những vấn đề chính trị quốc tế lớn khác.
Hội nghị Cấp cao lần thứ 17 của Phong trào KLK tại Venezuela (9/2016) với chủ đề “Hòa bình, Chủ quyền và Đoàn kết vì Phát triển” đã thảo luận các biện pháp thúc đẩy, đề cao vai trò của KLK, bảo vệ lợi ích chính đáng của các nước đang phát triển, tăng cường đoàn kết, phối hợp quan điểm giữa các nước thành viên trên những vấn đề quan trọng như an ninh quốc tế, giải trừ quân bị, cải tổ hệ thống quốc tế, hợp tác cùng phát triển, thực hiện SDG, COP21, đây cũng là dịp đánh giá 55 năm hoạt động của Phong trào và định hướng cho thời gian tới Với”. Tại Hội nghị, Venezuela chính thức tiếp nhận chức Chủ tịch KLK (nhiệm kỳ ba năm) từ Iran.
III. QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT
Với tinh thần đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ của phong trào giải phóng dân Với tinh thần đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ của phong trào giải phóng dân tộc và các nước mới giành độc lập dân tộc, năm 1955 Việt Nam đã tham dự Hội nghị Á-Phi ở Băng-đung (In-đô-nê-xi-a) nhằm tranh thủ sử ủng hộ của các nước Á-Phi, phục vụ công cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Ta tham gia Hội nghị có thuận lợi là thế giới khâm phục cuộc kháng chiến và chiến thắng Điện Biên Phủ thần kỳ ta vừa giành được, nhưng cũng có phức tạp là Hội nghị mời cả chính quyền Nguỵ quyền Sài Gòn. Tại Hội nghị, ta đã tích cực thúc đẩy đoàn kết giữa các nước mới giành độc lập, góp phần xác lập những nguyên tắc cơ bản sau này trở thành các nguyên tắc chỉ đạo cho hoạt động của phong trào KLK.
Tại các Hội nghị cấp cao lần thứ 1 (Ben-gờ-rát, 1961) và Hội nghị cấp cao lần thứ 2 (Cai-rô, 1964), Phong trào không mời ta và chính quyền Sài Gòn tham dự. Tuy nhiên, ta vẫn khẳng định vai trò quan trọng của Phong trào; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện mừng Hội nghị cấp cao lần thứ 1, bày tỏ Phong trào Không liên kết sẽ “cống hiến xứng đáng vào sự nghiệp chống đế quốc, thực dân và tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa các dân tộc, tăng cường chính sách cùng tồn tại hoà bình và bảo vệ hoà bình thế giới.”
Từ những năm 1970 khi Phong trào chuyển sang giai đoạn phát triển mới, Phong trào đã có ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện các cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc, trong đó có Việt Nam. Năm 1972, Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam làm quan sát viên (Hội nghị Gioóc-tao, Gai-a-na), rồi làm thành viên Phong trào (tại Hội nghị cấp cao IV An-giê, 1973). Tuy chưa là thành viên chính thức của phong trào, nhưng Việt Nam đã có đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh của các nước KLK và đang phát triển thể hiện chính bằng việc đi đầu trong phong trào giải phóng dân tộc, góp phần quan trọng xoá bỏ chủ nghĩa thực dân, chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1976 tại Hội nghị cấp cao V (Cô-lôm-bô, Xri Lan-ca), nước Việt Nam thống nhất gia nhập Phong trào. Bằng tấm gương sáng và thắng lợi của sự nghiệp chống ngoại xâm của mình, Việt Nam đã sớm gắn bó và đóng góp vào những mục tiêu và quá trình hình thành Phong trào KLK.
Phong trào KLK đã tiếp tục ủng hộ sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc và phát triển kinh tế -xã hội của ta sau khi thống nhất đất nước. Đáng chú ý, sau khi ta thực hiện quyền tự vệ trước sự tấn công của Cam-pu-chia Dân chủ và đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân Cam-pu-chia trước thảm hoạ diệt chủng, Mỹ đã cấu kết với các thế lực thù địch khác thực hiện chính sách bao vây cô lập đối với ta, chống lại Nhà nước Cộng hoà Nhân dân Cam-pu-chia, trong đó có việc thúc đẩy LHQ thông qua Nghị quyết về việc lên án ta, đòi ta rút quân, trao ghế đại diện cho Cam-pu-chia Dân chủ. Trong bối cảnh đó, Hội nghị cấp cao lần thứ 6 tại La Ha-ba-na (1979) đã quyết định để trống ghế của Cam-pu-chia, thực chất là trục xuất Cam-pu-chia Dân chủ; Phong trào cũng không có bất cứ tuyên bố nào bất lợi đối với ta. Tại Phong trào, ta đã tranh thủ sự ủng hộ của các nước để hạn chế các hành động chống phá ta của Mỹ và các thế lực thù địch trên vấn đề này.
Từ khi tham gia phong trào, Việt Nam luôn coi trọng Phong trào Không liên kết; tham dự tất cả các Hội nghị Cấp cao và Hội nghị ngoại trưởng, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tích cực tăng cường đoàn kết đề cao vai trò của Phong trào, nỗ lực đấu tranh cho mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Với sự tham gia tích cực của mình, Việt Nam luôn là thành viên có tiếng nói và vai trò trong Phong trào Không liên kết. Ta cũng phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tích cực tăng cường đoàn kết đề cao vai trò của Phong trào, nỗ lực đấu tranh cho mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Việt Nam luôn coi việc tham gia vào Phong trào KLK là chủ trương nhất quán, một bộ phận của chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá, bổ sung cho quan hệ song phương, khu vực và quốc tế của ta. Ta chủ trương tham gia và đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của các nước Không liên kết, đang phát triển. Trong quá trình tham dự, phương châm đóng góp của ta là: Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại; tham gia chủ động, tích cực, thể hiện là thành viên có trách nhiệm, thúc đẩy đoàn kết chung, đóng góp xây dựng, thiện chí đối với các quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Kiên quyết trên các vấn đề mang tính nguyên tắc, kiên trì đấu tranh để bảo đảm một cách tốt nhất các lợi ích của ta; tăng cường tham khảo và phối hợp với các nước KLK chủ chốt.
IV. CƠ CẤU VÀ THỦ TỤC HOẠT ĐỘNG CỦA PHONG TRÀO KHÔNG LIÊN KẾT
1. TÔN CHỈ MỤC ĐÍCH
Phong trào Không liên kết đấu tranh cho quyền tự quyết của các dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới, theo năm nguyên tắc chỉ đạo: hoà bình, độc lập, phát triển, không liên kết và không tham gia khối, nhóm quân sự, chính trị nào.
2. TIÊU CHUẨN THÀNH VIÊN
i. Quốc gia thành viên KLK cần có một chính sách độc lập, dựa trên cơ sở cùng tồn tại giữa các nhà nước với các hệ thống chính trị, xã hội độc lập và trên cơ sở không liên kết, hoặc thể hiện xu hướng ủng hộ một chính sách như vậy.
ii. Khi được yêu cầu, quốc gia thành viên KLK cần phải ủng hộ các phong trào độc lập dân tộc bằng biện pháp thích hợp.
iii. Quốc gia thành viên KLK không nên tham gia các liên minh quân sự đa phương được thành lập trong bối cảnh có các cuộc xung đột giữa các nước lớn.
iv. Nếu quốc gia thành viên KLK có thỏa thuận quân sự song phương với một nước lớn hoặc tham gia một hiệp ước phòng thủ khu vực, thì thỏa thuận hay hiệp ước đó không được thành lập có chủ ý nhằm đối phó với các cuộc xung đột giữa các nước lớn.
v. Nếu quốc gia thành viên KLK có cho phép một cường quốc quân sự đặt căn cứ quân sự tại nước mình, thì việc đó không được thực hiện trong bối cảnh có các cuộc xung đột giữa các nước lớn.
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC
Phong trào không có trụ sở hay cơ chế th¬ường trực (Uỷ ban Phối hợp hoạt động theo cơ chế đặc biệt (ad hoc) tại LHQ). Phong trào Không liên kết là một loại thể chế quốc tế đặc biệt, là một hiện tượng mới trong luật pháp quốc tế. Nó không phải đơn thuần là một Hội nghị hoặc Diễn đàn Liên chính phủ họp định kỳ, mà cũng không phải là một tổ chức của các nước do một điều ước quốc tế lập ra, có điều lệ rõ ràng và được thể chế hoá chặt chẽ. Mức độ thể chế hoá của Phong trào t¬ương đối lỏng lẻo và thể hiện chủ yếu ở tập quán và lề lối hoạt động.
Qua thực tiễn hoạt động, đã hình thành một hệ thống tổ chức gồm 3 cấp: Hội nghị Cấp cao của các vị đứng đầu nhà nước hoặc chính phủ các nước KLK, thông thường 3 năm họp một lần; giữa hai kỳ Hội nghị cấp cao, có hội nghị toàn thể các Bộ trưởng Ngoại giao; Cơ quan thường trực của Phong trào là Uỷ ban phối hợp, th¬ường xuyên hoạt động ở cấp đại sứ - đại diện các nước KLK bên cạnh Liên hợp quốc tại Niu-oóc; Uỷ ban phối hợp có thể họp cấp Bộ trưởng khi cần.
Cơ cấu và thủ tục làm việc cụ thể như sau:
3.1 Các cuộc họp:
- Hội nghị cấp cao: Là cuộc họp giữa các nguyên thủ quốc gia và những người đứng đầu chính phủ các nước thành viên KLK. Hội nghị cấp cao được tổ chức 3 năm 1 lần và luân phiên theo khu vực địa lý.
- Hội nghị Bộ trưởng: được tổ chức giữa các kỳ Hội nghị cấp cao và cũng luân phiên theo khu vực địa lý.
- Cuộc họp cấp Bộ trưởng của Ủy ban Phối hợp: được tổ chức vài tháng trước các Hội nghị cấp cao nhằm chuẩn bị và phối hợp các quan điểm được thể hiện trong Hội nghị cấp cao sắp tới.
- Cuộc họp cấp Bộ trưởng tại Niu-oóc: được tổ chức cùng đợt với các kỳ họp Đại Hội đồng Liên hợp quốc hàng năm.
- Các cuộc họp cấp Bộ trưởng khác về những lĩnh vực cụ thể như hợp tác kinh tế và thống tin.
- Các cuộc cấp dưới Bộ trưởng của Ủy ban Phối hợp, các Nhóm công tác, liên lạc và công tác đặc biệt, của Ủy ban Phối hợp chung KLK–G77.
3.2 Chủ tịch Phong trào
- Việc điều hành phong trào KLK không tuân theo cơ chế thứ bậc, trái lại, theo cơ chế luân phiên và khuyến khích các thành viên tham gia, nhằm đảm bảo tất cả các nước thành viên, đều có được cơ hội tham gia tích cực vào nền chính trị quốc tế.
- Hội nghị cấp cao là một dịp để Phong trào KLK chính thức chuyển giao vị trí Chủ tịch Phong trào cho nguyên thủ của quốc gia đăng cai Hội nghị cấp cao đó, và nguyên thủ nước này sẽ giữ vai trò đó tới tận kỳ Hội nghị cấp cao lần sau. Chủ tịch Phong trào sẽ được trao một số trách nhiệm nhất định nhằm thúc đẩy các nguyên tắc và hoạt động của Phong trào.
- Khi một nước đảm nhận vị trí Chủ tịch phong trào, nước đó sẽ thiết lập hoặc trao nhiệm vụ cho một bộ phận cụ thể của Bộ Ngoại giao nước mình giải quyết các vấn đề của phong trào KLK. Tiếp đó, vì các nước KLK gặp gỡ nhau thường xuyên tại Liên hợp quốc và thực hiện rất nhiều hoạt động của phong trào ở đó, nên Đại sứ tại Liên hợp quốc của nước giữ chức chủ tịch Phong trào đóng vai trò quan trọng như một “Bộ trưởng” của phong trào KLK. Công việc của phong trào thường được đưa vào trong hoạt động của Phái đoàn thường trực tại Niu-oóc của nước giữ chức Chủ tịch.
- Nhằm hỗ trợ chức năng của Chủ tịch Phong trào, một số cơ chế được thành lập nhằm tăng cường phối hợp và điều hành các Nhóm công tác, Nhóm liên lạc, các Ủy ban của KLK đã có. Các cơ chế này cũng được tạo ra nhằm thúc đẩy quá trình đạt được quan điểm và lợi ích chung để cho các nước KLK có thể tạo ra một tiếng nói chung trong các cuộc đàm phán và diễn đàn quốc tế.
3.3 Ủy ban Phối hợp
- Ủy ban Phối hợp (UBPH) được thành lập lần đầu tiên ở cấp Bộ trưởng tại Hội nghị cấp cao ở An-giê-ri năm 1973. UBPH có trách nhiệm chuẩn bị cho các Hội nghị cấp cao và các Hội nghị Bộ trưởng tiếp đó. UBPH là đầu mối chính trong điều hành các hoạt động và phối hợp quan điểm giữa các thành viên Phong trào, đặc biệt là tại diễn đàn Liên hợp quốc. UBPH thiết lập và điều hòa hoạt động của các Nhóm Công tác, Nhóm công tác đặc biệt, Nhóm Liên lạc và các Ủy ban của các nước thành viên Phong trào KLK. Ủy ban Phối hợp thường xuyên họp ở Niu-oóc để phối hợp và thống nhất lập trường của các nước KLK tại LHQ và trên các diễn đàn quốc tế khác.
- Dần dần hoạt động của Ủy ban Phối hợp còn được giao cho các Đại sứ, đại diện của các nước tại LHQ. Khi mới thành lập, thành viên của Ủy ban Phối hợp được giới hạn ở 25 nước, nhưng đến nay, Ủy ban mở rộng cho tất cả các nước tham gia. Nước đảm nhận vị trí Chủ tịch Phong trào KLK đồng thời giữ chức Chủ tịch Ủy ban.
3.4 Các nhóm Công tác, Liên lạc, Công tác đặc biệt và Các Ủy ban
Các nhóm công tác KLK hoạt động một cách không chính thức và góp phần vào các công việc chuẩn bị và phối hợp của Ủy ban Phối hợp. Các nhóm này hoạt động chủ yếu trong khuôn khổ chương trình của các cơ quan Liên hợp quốc. Hội nghị Cấp cao ở An-giê-ri năm 1973 xác định công việc của các nhóm này là “nhằm đạt được một lập trường chung và cố gắng có được hành động chung hợp lý tại Đại Hội đồng Liên hợp quốc”. Hiện nay các nhóm công tác hoạt động tích cực nhất là các nhóm về các vấn đề giải trừ quân bị, gìn giữ hòa bình, Pa-le-xtin, nhân quyền và nhóm về cải tổ Hội đồng Bảo an.
3.5 Nhóm Các nước KLK là thành viên Hội đồng Bảo an (Caucus)
- Có những thành viên của Phong trào KLK được bầu vào Hội đồng Bảo an, và những nước này sẽ nhóm họp theo cơ chế họp kín (Caucus). Các nước này có trách nhiệm bảo đảm các quan điểm và quyết định của Phong trào KLK được thông qua tại các Hội nghị cấp cao, Hội nghị Bộ trưởng hay của Ủy ban Phối hợp, sẽ được thể hiện một cách đúng đắn tại Hội đồng Bảo an mà không áp đặt lên chủ quyền của các nước này.
- Chủ tịch Ủy ban Phối hợp ở Niu-oóc tham dự và phát biểu trước Hội đồng Bảo an về những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với các thành viên của Phong trào. Để mở rộng quy mô phối hợp, Chủ tịch Ủy ban Phối hợp có thể được nhóm Caucus mời tham dự cuộc họp kín của nhóm này.
- Chủ tịch của Ủy ban Phối hợp KLK có thể tổ chức các cuộc họp thường kỳ với từng nước trong nhóm Caucus nhằm có được thông tin cơ bản về hoạt động của Hội đồng Bảo an và ngược lại cung cấp cho nhóm Caucus quan điểm của Phong trào. Cũng như vậy, nhóm Caucus thông tin cho Chủ tịch của Ủy ban Phối hợp về những cuộc thảo luận sẽ diễn ra và các vấn đề có tầm quan trọng đối với Phong trào. Nước điều phối viên của nhóm Caucus cũng cần thông báo thường kỳ với các thành viên của Phong trào về những thông tin trên thông qua Ủy ban Phối hợp.
3.6 Ủy ban Phối hợp Chung KLK - G77
Ủy ban Phối hợp Chung KLK - G77 có trách nhiệm phối hợp các hoạt động của các nước KLK và nhóm các nước đang phát triển G77 để thúc đẩy quan điểm và lợi ích của các nước đang phát triển nói chung trên các diễn đàn quốc tế.
3.7 Nhóm Troika
Nhóm Troika lần đầu tiên được đề ra tại Hội nghị Bộ trưởng KLK tại Niu Đê-li năm 1997. Nhóm này bao gồm 3 nước giữ cương vị Chủ tịch Phong trào khóa trước, Chủ tịch hiện tại và Chủ tịch khóa sắp tới.
4. THỦ TỤC LÀM VIỆC
Phong trào Không liên kết áp dụng các nhiều thủ tục chung như đa số các Hội nghị quốc tế, nhưng có một điểm khác riêng biệt, đó là thông qua quyết định bằng "đồng thuận" (consensus), không phải bằng bỏ phiếu. "Consensus" có nghĩa là sự "đồng thuận áp đảo", chứ không phải là "đồng thuận tuyệt đối", đi đôi với quyền "bảo lưu" ý kiến của nước nào không tán thành "đồng thuận", là sự thể hiện tinh thần dân chủ và tính mềm dẻo trong quá trình thông qua quyết định. Khái niệm "bảo lưu", tức là cho phép những nước có ý kiến khác với kết luận của Chủ tịch cuộc họp có quyền bảo lưu quan điểm của mình bằng cách phát biểu tại hội nghị hoặc bằng văn bản gửi cho Chủ tịch Hội nghị.
Khái niệm consensus riêng biệt của KLK lần đầu tiên được đưa ra năm 1973 xuất phát từ tính đa dạng của Phong trào KLK bao gồm nhiều nước thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới, với nhiều đặc thù về chủng tộc và văn hoá, chế độ chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó, các nước KLK, có sự thống nhất cơ bản về mục đích. Sự “thống nhất trong đa dạng” là bản chất của sức mạnh và sức sống của Phong trào và được thường xuyên nhắc đến như một châm ngôn của Phong trào KLK. Nó đòi hỏi sự thông cảm và tôn trọng các quan điểm khác nhau kể cả những quan điểm bất đồng, và hàm chứa sự đáp ứng lẫn nhau (mutual accomodation), tạo cơ sở cho một quá trình thích nghi lẫn nhau giữa các nước thành viên theo tinh thần thực sự không liên kết. Hội Nghị Cấp Cao 7 Niu Đê-li (7-12/3/1983), đã giải thích: "Đồng thuận vừa là quá trình vừa là bản thân công thức thoả hiệp cuối cùng được hình thành sau những cuộc tham khảo, thảo luận và đàm phán để đi đến một lập trường nói chung được chấp nhận. Nói cách khác, consensus là sự hội tụ và hài hoà các quan điểm thể hiện sự đồng ý rộng rãi nhất của Hội nghị nhằm tăng thêm hoặc chí ít duy trì sự thống nhất và sức mạnh của phong trào".
* Nguồn gốc của phương thức consensus xuất phát chủ yếu từ tính đa dạng về thành viên của Phong trào KLK. Tính đa dạng này đã được Hội nghị Kabul (5/1973) giải thích như sau: "Phong trào KLK bao gồm nhiều nước thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới, với nhiều đặc thù về chủng tộc và văn hoá, chế độ chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó của các nước KLK, có sự thống nhất cơ bản về mục đích. Sự thống nhất trong đa dạng là bản chất của sức mạnh và sức sống của Phong trào". Từ đó về sau, từ ngữ "thống nhất trong đa dạng" được thường xuyên nhắc đến như một châm ngôn của Phong trào KLK. Trong quá trình thông qua các quyết định của Phong trào, sự "thống nhất trong đa dạng" ở đây còn được hiểu là consensus đi đôi với quyền được bảo lưu ý kiến.
* Việc bảo lưu: Mặc dù tại Kabul có sự giải thích như trên về khái niệm consensus, nhưng việc áp dụng trong thực tế đối với từng vấn đề cụ thể không phải là đơn giản mà còn tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng bên trong Hội nghị và xu thế chung lúc đó. Khái niệm "bảo lưu", tức là cho phép những nước có ý kiến khác với kết luận của chủ tịch cuộc họp có quyền bảo lưu quan điểm của mình bằng cách phát biểu tại hội nghị hoặc bằng văn bản gửi cho Chủ tịch Hội nghị.
* Tại Hội Nghị Cấp Cao 7 New Delhi (7-12/3/1983), "Quyết định về biện pháp tăng cường thống nhất, đoàn kết và hợp tác giữa các nước đang phát triển" đã quy định cụ thể thêm về lề lối làm việc của Uỷ ban phối hợp và thể thức thông qua các quyết định bằng consensus. Hội nghị cho rằng: việc thông qua các quyết định bằng "đồng thuận" đã trở thành thông lệ của Phong trào, mặc dù còn một số khó khăn trong việc sử dụng phương thức consensus. Phong trào khẳng định thêm: "Đồng thuận vừa là quá trình vừa là bản thân công thức thoả hiệp cuối cùng được hình thành sau những cuộc tham khảo, thảo luận và đàm phán để đi đến một lập trường nói chung được chấp nhận. Nói cách khác, consensus là sự hội tụ và hài hoà các quan điểm thể hiện sự đồng ý rộng rãi nhất của Hội nghị nhằm tăng thêm hoặc chí ít duy trì sự thống nhất và sức mạnh của phong trào".
* Tại Hội nghị Cấp cao lần thứ 11 Cartagena, Colombia (18-20/10/1995), Lãnh đạo cấp Cao các nước đã nhất trí thành lập Ủy ban cấp Bộ trưởng về phương pháp làm việc. Tháng 5/1996 tại Cartagena, Ủy ban cấp Bộ trưởng KLK đã thông qua Văn kiện Cartagena về Phương pháp làm việc, trong đó khẳng định duy trì nguyên tắc “đồng thuận” của KLK và
Thứ Tư, ngày 26 tháng 3 năm 2025
Phong trào Không liên kết
| 12:00 | 05/01/2017
-
Tin cùng chuyên mục
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính gặp Lãnh đạo EU nhân dịp dự Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ 3
04:31 | 10/06/2025
(MOFA) - Ngày 09/06/2025, nhân dịp tham dự Hội nghị Cấp cao lần thứ 3 của Liên hợp quốc về Đại dương tại Nice, Pháp, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có 2 cuộc gặp với Lãnh đạo EU, bao gồm gặp làm việc với Chủ tịch Hội đồng Châu Âu Antonio Costa và gặp ngắn với Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội kiến Tổng thống Pháp Emmanuel Macron
12:41 | 10/06/2025
(MOFA) - Nhân dịp tham dự Hội nghị Đại dương Liên hợp quốc lần thứ 3 tại Nice, Pháp, ngày 9/6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã hội kiến Tổng thống Pháp Emmanuel Macron.
Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 77
12:00 | 09/06/2022
(MOFA) - (MOFA) - Sáng ngày 07/6/2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc (ĐHĐ LHQ) đã họp để bầu các chức danh Chủ tịch và các Phó Chủ tịch ĐHĐ LHQ Khoá 77, theo đó, Đại sứ Csaba Kőrösi, người Hungary đã trở thành tân Chủ tịch ĐHĐ LHQ Khóa 77.
Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp các lãnh đạo của Liên hợp quốc
12:00 | 17/05/2022
(MOFA) - (VNA) - Thủ tướng đề nghị Liên hợp quốc tiếp tục hỗ trợ các nước đang phát triển trong ứng phó với đại dịch, bảo đảm an sinh xã hội và tư vấn chính sách, phục hồi theo hướng xanh, bền vững, tự cường hơn.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tiếp xã giao Tổng Thư ký Tổ chức quốc tế Pháp ngữ Louise Mushikiwabo
12:00 | 25/03/2022
(MOFA) - (MOFA) - Chiều ngày 25/3/2022, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã tiếp bà Louise Mushikiwabo, Tổng thư ký Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (OIF) nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam. Tham dự buổi tiếp có lãnh đạo các Bộ Ngoại giao, Công thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giáo dục và Đào tạo. Cùng dự cuộc tiếp còn có các đại diện của OIF và quyền Đại diện của OIF tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Danh sách bình luận
🔗 Liên kết
📰 Đọc nhiều
- 1 Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn gặp với Tổng thư ký ASEAN Kao Kim Hourn
- 2 Phiên họp vòng XXX giai đoạn II cấp Chủ tịch Ủy ban Liên họp phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc
- 3 DANH MỤC MIỄN THỊ THỰC CỦA VIỆT NAM VỚI CÁC NƯỚC
- 4 Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao Nguyễn Minh Vũ dự Hội nghị Ấn Độ Dương lần thứ 8 tại Muscat, Oman
- 5 Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn trao quyết định bổ nhiệm 3 Thứ trưởng Ngoại giao
THÔNG TIN LIÊN HỆ
VĂN PHÒNG BỘ
Địa chỉ
Số 01 Tôn Thất Đàm, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại
02437992000
Fax
02437992682
Email
bantinbaochi@mofa.gov.vn