TÀI LIỆU CƠ BẢN QUAN HỆ VIỆT NAM - PHÁP
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CỘNG HÒA PHÁP
---*---
I. Giới thiệu chung:
Tên nước: Cộng hoà Pháp (French Republic/République francaise)
Thủ đô: Paris
Quốc khánh: 14 tháng 7
Vị trí địa lý: Tây Âu, giáp ranh với Bỉ và Lúc-xăm-bua (Luxembourg) về phía Đông-Bắc, Đức và Thụy Sĩ về phía Đông, Italia và Mô-na-cô (Monaco) về phía Đông-Nam, Tây Ban Nha và An-đô-ra (Andorra) về phía Tây-Nam
Diện tích: 551.602 km2
Khí hậu: Ôn đới
Dân số: 66.030.000 , đứng thứ 2 trong EU (sau Đức)
Dân tộc: Pháp
Ngôn ngữ: Tiếng Pháp
Đơn vị tiền tệ: Đồng Eu-rô (Euro)
GDP: 2.827 tỷ USD (2014), đứng thứ 6 thế giới
GDP đầu người: 44.538 USD (2014, đứng thứ 39 trên thế giới)
Tôn giáo: Cơ đốc giáo (58%), Hồi giáo (6%), Tin lành (2%), Do Thái (1%) , không theo tôn giáo (32%)
Cơ cấu hành chính: 13 vùng, 101 tỉnh và 36.686 huyện/thành
Lãnh đạo chủ chốt:
• Tổng thống: Phờ-răng-xoa Ô-lăng-đơ (Francois Hollande)
• Chủ tịch Quốc hội: Cờ-lốt Bác-tô-lôn (Claude Bartolone)
• Chủ tịch Thượng viện: Dê-ra Lác-sờ (Gérard Larcher)
• Thủ tướng: Manuel Valls (Ma-nuy-en Van-sờ)
• Bộ trưởng Ngoại giao và Phát triển quốc tế: Giăng – Mác E-rô (Jean-Marc Ayrault)
II. Khái quát lịch sử:
Nước Pháp là nước có lịch sử lâu đời ở châu Âu. Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa 1000 năm trước công nguyên.
Từ La Mã đến Cách mạng:
Tới năm 59 trước công nguyên xứ Gôn bị đế chế La Mã chinh phục và đô hộ trong 400 năm và chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá La Mã.
Triều đại đầu tiên của lịch sử Pháp là Mérovingien kéo dài từ đầu thế kỷ 5 tới năm 751. Năm 843, sau hiệp ước Verdun (chia cắt đế chế Charlemagne), Charles II trở thành vị vua đầu tiên cai trị nước Pháp độc lập. Từ vị vua đầu tiên là Charles II tới hoàng đế cuối cùng là Napoléon III, ba dòng họ cai trị nước Pháp là dòng họ Carolingien, Capétien và Bonaparte. Chế độ phong kiến phát triển đỉnh điểm ở thế kỷ 17 thời vua Louis XIV.
Từ quân chủ đến nước Pháp đương đại:
Thế kỷ 18, nền văn minh Pháp và tiếng Pháp phát triển rực rỡ ở châu Âu với kỷ nguyên ánh sáng và các nhà triết học nổi tiếng như Montesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau…
Chế độ quân chủ tồn tại cho tới cuộc Cách mạng Pháp, năm 1789. Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đi vào lịch sử với Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Năm 1871, Công xã Paris - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên - thắng lợi ở Pháp, nhưng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn.
Từ thế kỷ 17 đến 1960, Pháp là quốc gia sở hữu nhiều nước thuộc địa. Trong thế kỷ 19 và 20, đế chế thuộc địa toàn cầu của họ lớn thứ hai thế giới, chỉ sau đế chế Anh. Vào đỉnh điểm (1919 – 1939), đế chế thuộc địa Pháp chiếm 8,6% diện tích đất liền thế giới.
Là nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng Pháp phải chịu nhiều tổn thất to lớn cả về người và của. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau một một trận đánh ngắn và dữ dội (1940), Pháp đã quyết định đầu hàng Đức. Phản đối quyết định này của Chính phủ, Tướng de Gaulle thành lập các Lực lượng Pháp Tự do bên ngoài nước Pháp và Kháng chiến Pháp trong nước, và cùng quân đồng minh giải phóng Pháp năm 1944.
Pháp đã trải qua nhiều nền cộng hòa; hiện nay là nền cộng hòa thứ 5.
III. Thể chế nhà nước và đảng phái chính trị:
1. Thể chế nhà nước Cộng hoà:
Nước Pháp theo chế độ Nghị viện - Tổng thống. Tổng thống do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm và có quyền lực lớn: bổ nhiệm Thủ tướng, chủ trì Hội đồng Bộ trưởng, giải tán Quốc hội và quyết định tổ chức trưng cầu dân ý về các vấn đề quan trọng... Theo hiến pháp, Tổng thống là lãnh đạo cao nhất về chính sách đối ngoại và quốc phòng. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, có trách nhiệm trước Quốc hội, giữ quyền xây dựng luật trong phạm vi của mình và đảm bảo thi hành pháp luật.
Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, gồm Quốc hội và Thượng viện. Quốc hội do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm (577 đại biểu). Thượng viện được bầu gián tiếp (348 đại biểu do các uỷ viên hội đồng vùng, tỉnh và các nghị sĩ Quốc hội bầu ra), nhiệm kỳ 6 năm, 3 năm bầu lại ½. Với việc bỏ phiếu bất tín nhiệm, Quốc hội có thể bãi miễn chính phủ.
2. Các đảng phái chính trị:
2.1. Các đảng phái cánh tả:
- Đảng Xã hội: thành lập 1905, đầu những năm 70 phát triển mạnh, có tổ chức sâu rộng trong xã hội. Đảng Xã hội là đảng lớn thứ 2 tại Pháp với khoảng 205.000 đảng viên . Bí thư thứ nhất Đảng Xã hội hiện là ông Jean – Christophe Cambadélis.
- Đảng Cộng sản: ra đời năm 1920, theo đường lối mác-xít, với mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng con đường hoà bình. Đảng Cộng sản là đảng lớn thứ 3 tại Pháp với 135.000 đảng viên. Bí thư toàn quốc Đảng Cộng sản Pháp hiện là đồng chí Pierre Laurent.
- Đảng Xanh (Les Verts): thành lập 1984, chủ trương "đoàn kết, có trách nhiệm đối với hành tinh và trách nhiệm công dân". Hiện Chủ tịch Đảng là bà Cécile Duflot.
Ngoài ra còn có các đảng khác như : Phong trào Công dân (Mouvement des citoyens); Đảng Xã hội cấp tiến (Parti Radical Socialiste); Đảng Đấu tranh Công nhân (Lutte Ouvrière)...
2.2. Các đảng phái cánh hữu:
- Đảng Những người Cộng hòa (Les Républicains) thành lập tháng 4/2002, tập hợp các đảng Tập hợp vì nền cộng hòa (RPR) và cánh trung hữu của Lực lượng Dân chủ. Les Républicains là đảng đối lập lớn nhất hiện nay tại Pháp với 250.000 đảng viên. Tháng 5/2015, cựu Tổng thống Nicolas Sarkozy được bầu làm Chủ tịch Đảng.
- Đảng cực hữu Mặt trận Quốc gia - Front National: thành lập năm 1972. Đầu năm 1999, chia thành 2 đảng Mặt trận Quốc gia và Mặt trận Quốc gia - Phong trào Quốc gia (Front National - Mouvement National). Chủ tịch Đảng hiện nay là bà Marine Le Pen.
2.3. Các Đảng trung dung:
- Đảng Phong trào Dân chủ (MoDem): do ông François Bayrou thành lập tháng 12/2007 và làm Chủ tịch trên cơ sở lực lượng UDF trung thành với ông (đảng UDF không còn tồn tại). MoDem hiện có khoảng 70.000 đảng viên.
- Đảng Liên minh Dân chủ và Độc lập (UDI) do ông Jean – Louis Borloo thành lập tháng 9/2012, tập hợp các Đảng Parti Radical, Nouveau Centre và Alliance centriste. NC hiện có khoảng hơn 27.000 đảng viên. Hiện Chủ tịch Đảng là ông Jean – Christophe Lagarde.
IV. Kinh tế:
Pháp là cường quốc kinh tế lớn thứ 5 thế giới, đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu dịch vụ. Pháp có số lượng doanh nghiệp rất lớn, trong đó có doanh nghiệp hàng đầu thế giới. Pháp có truyền thống lâu đời trong phát minh công nghiệp, hệ thống giáo dục chất lượng cao, đội ngũ nghiên cứu trình độ cao; đầu tư nhiều cho công tác nghiên cứu-phát triển; năng suất lao động thuộc loại hàng đầu thế giới.
- Thu nhập quốc dân (GDP) 2015: 2.085 tỷ euro
- Tăng trưởng GDP cả năm 2015: 1,1 %
- Tỷ lệ thất nghiệp (quý IV/2015): 10,3% (2,9 triệu người)
- Nợ công (2015): 96,9% GDP (2103,2 tỷ euro)
- Thâm hụt cán cân thương mại (2015) : 45,7 tỷ euro. Xuất khẩu đạt 437,3 tỷ euro, đứng thứ 6 thế giới (sau Trung Quốc, Mỹ, Đức, Anh và Nhật), tập trung vào thị trường xe hơi, thiết bị văn phòng và điện tử, thiết bị giao thông vận tải, hoá hữu cơ, sản phẩm dược, xây dựng sân bay, máy móc, nông sản chế biến, lương thực. Nhập khẩu đạt 491,1 tỷ euro, đứng thứ 6 thế giới (sau Mỹ, Trung Quốc, Đức, Anh và Nhật). Hai phần ba trao đổi thương mại của Pháp là với các đối tác trong EU.
- Đầu tư nước ngoài : Pháp đứng thứ 4 trên thế giới về đầu tư ra nước ngoài, đạt 1200 tỷ $ (12/2014), dự kiến năm 2015 tăng lên 1400 tỷ $, tăng 11% so với năm 2014, sau Mỹ, Anh và Trung Quốc, tập trung chủ yếu tại Trung Quốc, châu Âu và Bắc Mỹ (chiếm ¾ tổng vốn đầu tư của Pháp). Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư hàng năm ra nước ngoài của Pháp năm 2014 tăng lên 43 tỷ $, đứng thứ 8 trên thế giới (so với vị trí thứ 15 năm 2013). Pháp là địa chỉ hấp dẫn thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung Quốc và Anh về thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư của nước ngoài vào Pháp năm 2014 đạt 15 tỷ $. Song, nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Pháp hàng năm cũng có xu hướng giảm sút, từ vị trí thứ 10 trên thế giới năm 2010 xuống vị trí thứ 42 năm 2013.
Nông nghiệp: Pháp là nước đứng đầu châu Âu về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Hàng năm Pháp xuất siêu khoảng 6,6 tỷ USD hàng nông sản (gồm lúa mì, rượu nho, các sản phẩm thịt và sữa). Năng suất lao động nông nghiệp cao, công nghiệp chế biến thực phẩm rất phát triển chiếm xấp xỉ 3,5% GDP.
Các ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn:
- Chế tạo cơ khí, nhất là sản xuất ôtô (thứ 4 thế giới với các công ty như PSA Peugeot-Citroen, Renault, Michelin).
- Hàng không (thứ 3 thế giới với các công ty lớn như EADS, Arianespace, Airbus, Dassault Aviation)
- Năng lượng (Total, Areva, EDF, GDF Suez)
- Thiết bị giao thông vận tải (Alstom, Vinci)
- Vật liệu xây dựng, thiết bị (Lafarge, Saint-Gobain, Arcelor-Mittal)
- Viễn thông (Alcatel, France Telecom, Bouygues)
- Công nghiệp dược (thứ 5 thế giới, Rhône-Poulenc, Sanofi-Aventis)
- Mỹ phẩm và thời trang cao cấp (Oréal, LVMH)
- Dịch vụ tài chính ngân hàng (Dexia, Credit Agricole, Société générale, BNP Paribas), bảo hiểm (AXA), thông tin truyền thông (Vivendi, Canal+, Lagardère SCA), lĩnh vực phân phối (Carrefour, Casino)
- Lượng khách du lịch tới Pháp đứng hàng đầu thế giới, thu hút 90 triệu lượt khách (2010) .
V. Chính sách đối ngoại:
Pháp ủng hộ mạnh mẽ việc hình thành một thế giới đa cực, trong đó EU đóng vai trò nòng cốt.
1. Với châu Âu: Ưu tiên hàng đầu là xây dựng và củng cố quan hệ với châu Âu. Dưới thời Tổng thống Sarkozy, Pháp chủ trương xây dựng châu Âu theo hướng: coi trọng việc khởi động lại tiến trình nhất thể hoá châu Âu; thuyết phục các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) thông qua Hiến pháp giản đơn; tăng cường vai trò quốc tế của EU và củng cố vai trò của Pháp tại châu Âu; thúc đẩy quan hệ với các nước Đông và Trung Âu sau thời kỳ lạnh nhạt dưới thời Tổng thống Chirac; tăng cường khả năng phòng thủ của EU (theo hướng lên kế hoạch tác chiến và chỉ huy các chiến dịch, phát triển các chương trình vũ khí mới, nâng cao khả năng tác chiến của quân đội các nước, hoàn thành dự thảo “Chiến lược an ninh châu Âu”).
Dưới thời TTh Hollande, tuy muốn tạo ra phong cách khác với Sarkozy nhưng về cơ bản, các ưu tiên và định hướng đối ngoại lớn không thay đổi, dựa nhiều trên các tính toán về lợi ích và thực lực hiện nay của Pháp, tiếp tục chú ý nhiều đến các khu vực kế cận, các đối tác lớn, đã có một số bước triển khai khá mạnh tới khu vực châu Âu, châu Phi, Trung Đông, củng cố quan hệ với Mỹ, điều chỉnh quan hệ với Đức cho cân bẳng hơn, thể hiện vai trò tích cực đối với các khủng hoảng khu vực như Syrie, Mali, Israel, Iran… Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Pháp chủ trương đẩy mạnh vai trò “Ngoại giao kinh tế”. TTh Hollande cũng tỏ quan tâm hơn tới Châu Á (tham dự ASEM, Pháp ký ĐTCL với Singapour, lãnh đạo Pháp thăm Philipines, quan tâm tới chuyển biến tại Myanmar).
2. Với Mỹ: Chính sách đối ngoại độc lập với Mỹ trong những vấn đề quốc tế và toàn cầu luôn được coi là “bản sắc ngoại giao Pháp”, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh Irak. Từ nhiệm kỳ 2, Tổng thống Chirac đã có những bước điều chỉnh nhằm hàn gắn quan hệ với Mỹ. Tổng thống Sarkozy một mặt khẳng định chính sách xích lại với Mỹ, là “đồng minh” của Mỹ, đặc biệt với việc quay lại các cơ chế lãnh đạo của NATO, tăng cường hiện diện tại Afghanistan hoặc cam kết tại Irak, nhưng vẫn duy trì “bản sắc Pháp” qua một số hồ sơ lớn như quan hệ với Nga, biến đổi khí hậu…
3. Với Trung Đông: Pháp tăng cường được sự hiện diện và vai trò của mình tại khu vực như việc đăng cai Hội nghị tái thiết Trung Đông, xích lại với Israel, gia tăng vai trò trung gian hòa giải của Pháp đối với cuộc xung đột vũ trang giữa Israel và Palestine, tăng cường ảnh hưởng tại các quốc gia vùng Vịnh (Ả-rập Xê-út, Qatar và các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất). Đặc biệt là đi đầu trong việc can thiệp giải quyết khủng hoảng tại các nước Bắc phi trong thời gian qua.
4. Với châu Phi: Pháp tiếp tục coi châu Phi là một ưu tiên, thúc đẩy sáng kiến Liên minh Địa Trung Hải, chủ trương triển khai Cơ chế đồng phát triển với các nước châu Phi da đen trước đây là thuộc địa của Pháp. Tuy nhiên, ngân sách hỗ trợ cho châu Phi đã bị cắt giảm và vai trò của Pháp tiếp tục suy giảm do chưa giải quyết dứt điểm được những cuộc khủng hoảng chính trị - quân sự đã kéo dài nhiều năm tại một số quốc gia châu Phi.
5. Với châu Á - Thái Bình Dương: Tiếp tục duy trì quan hệ cân bằng với các cường quốc như Nga, Nhật Bản. Chủ động đẩy mạnh quan hệ, đối thoại với một số nước mới nổi. Quan hệ với Trung Quốc đặc biệt được coi trọng do vị trí địa-chiến lược quốc tế ngày càng quan trọng, tiềm năng kinh tế dồi dào.
6. Với Liên Hợp Quốc: Là thành viên thường trực của Hội đồng bảo an/Liên hợp quốc (LHQ), Pháp đề cao vai trò của LHQ, ủng hộ cải tổ LHQ, mở rộng HĐBA-LHQ, tích cực tham gia các hoạt động can thiệp của LHQ trong các cuộc xung đột khu vực, cử quân đội tham gia lực lượng của LHQ. Pháp là nước có số quân đông nhất tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của LHQ (gần 10.000 người).
7. Chính sách quốc phòng: Trong chiến lược quốc phòng sau chiến tranh lạnh, Pháp chủ trương xây dựng lực lượng quốc phòng trong khuôn khổ đa phương (trong NATO, trong Liên minh Tây Âu (UEO), hay trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc) và trong khuôn khổ các Hiệp định song phương với các nước (đặc biệt với các nước châu Phi). Pháp thực hiện cải cách quốc phòng nhằm xây dựng một quân đội chuyên nghiệp (từ 2002), thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự tự nguyện; cắt giảm ngân sách và quân số, xây dựng quân đội dựa trên 4 lực lượng: răn đe hạt nhân, phòng ngừa, triển khai nhanh và bảo vệ (an ninh trong nước). Cải cách quân đội đi đôi với tổ chức lại nền công nghiệp quốc phòng để có khả năng cung cấp cho quân đội những vũ khí hiện đại nhất và tham gia xây dựng nền công nghiệp quốc phòng châu Âu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường vũ khí thế giới.
QUAN HỆ VIỆT NAM – PHÁP
I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ:
Việt Nam và Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ ngày 12/4/1973.
1. Các giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn 1975-1978: Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam và Pháp tăng cường quan hệ nhiều mặt. Pháp bắt đầu hỗ trợ ta trong quá trình khôi phục đất nước. Đỉnh cao quan hệ là chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tháng 4/1977.
- Trong những năm 80, quan hệ hai nước bị ngưng đọng do vấn đề Campuchia. Trong khi Mỹ và các nước phương Tây thi hành chính sách cô lập Việt Nam, gây sức ép đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, Pháp giữ thái độ chừng mực.
- Từ năm 1989, quan hệ Việt-Pháp được cải thiện trở lại. Pháp đã đi đầu các nước phương Tây trong khai thông quan hệ với Việt Nam, xoá nợ cho Việt Nam, giúp Việt Nam giải quyết nợ với các nước chủ nợ thành viên CLB Paris.
- Từ đó đến nay, Việt Nam và Pháp đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao. Về phía Pháp, đã có 4 chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao Pháp sang Việt Nam (Tổng thống Mitterrand 1993, Tổng thống Chirac năm 1997 và 2004; Thủ tướng Fillon tháng 11/2009, Chủ tịch Thượng viện Poncelet thăm Việt Nam năm 2003 và 2008). Về phía Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Pháp năm 2000, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm Pháp năm 2005, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Pháp năm 2002, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Pháp năm 1993, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Pháp năm 1998 và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Pháp năm 2007 và 2013, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An thăm Pháp 2005 và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm Pháp năm 2008. Ngoài ra trong năm 2013, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh thăm Pháp (3/2013), Bộ trưởng Ngoại giao Laurent Fabius thăm Việt Nam (8/2013).
- Nhân chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (9/2013), hai nước đã ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Pháp, là cơ sở đưa quan hệ hai nước ngày càng phát triển sâu rộng.
2. Các cơ chế hợp tác:
Hai nước có nhiều cơ chế hợp tác, đáng lưu ý có:
- Đối thoại chiến lược an ninh quốc phòng giữa 2 Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Pháp, do Bộ Ngoại giao chủ trì, họp thường kỳ hai năm một lần. Kỳ họp lần thứ 5 đã diễn ra tại Việt Nam từ ngày 15-16/3/2012. Dự kiến, kỳ họp lần thứ 6, và cũng là kỳ họp lần đầu tiên ở cấp Thứ trưởng, sẽ diễn ra tại Paris vào đầu năm 2016.
- Đối thoại cấp cao thường niên về kinh tế: Là cơ chế sát nhập Hội đồng cấp cao vì sự phát triển hợp tác kinh tế Việt – Pháp và Diễn đàn kinh tế tài chính Việt – Pháp, do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ trưởng Ngoại thương Pháp đồng chủ trì và họp phiên đầu tiên ngày 9/4/2013. Phiên họp lần thứ 3 diễn ra tại Hà Nội ngày 15/4/2015. Đây là cơ chế nhằm thảo luận các vấn đề chung trong hợp tác kinh tế hai nước, cũng như các dự án kinh tế song phương cụ thể. Ngoài ra, tại Đối thoại, hai bên cũng tổ chức phiên Diễn đàn doanh nghiệp, quy tụ nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Pháp và Việt Nam tham gia.
II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ:
1. Thương mại:
Pháp là đối tác thương mại châu Âu lớn thứ năm của Việt Nam (sau Đức, Anh, Hà Lan, Ý). Trao đổi thương mại hai chiều năm 2015 đạt 4,2 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2014, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Pháp đạt 2.9 tỷ USD (tăng 23% so với năm 2014; chủ yếu là giày dép, dệt may, đồ gia dụng, thủy sản và máy móc thiết bị, linh kiện điện tử) và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Pháp tăng 10% so với năm 2014, đạt 1,3 tỷ USD (chủ yếu là thiết bị hàng không, dược phẩm, sản phẩm cơ khí, sản phẩm điện tử, hóa chất và đồ uống có cồn).
Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Pháp
(đơn vị: triệu USD)
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
XK 971 809 1095 1659 2163 2206 2399 2952
NK 829 864 969 1205 1589 995 1143 1260
XNK 1800 1673 2064 2864 3752 3201 3542 4212
(Nguồn: Tổng Cục Thống kê)
2. Đầu tư:
Pháp đầu tư vào Việt Nam từ năm 1988. Tính đến 10/2015, Pháp đứng thứ 2 trong các nước châu Âu (sau Hà Lan) và đứng thứ 16 trong tổng số 105 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 448 dự án đầu tư còn hiệu lực, tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 3,4 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp của Pháp tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: thông tin và truyền thông (22,9% tổng vốn đầu tư), dịch vụ (17,7%), lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, nước, điều hòa (17%), công nghiệp (12%) và còn lại là nông nghiệp, phân phối hàng hóa, giải trí, xây dựng và tài chính ngân hàng; phân bổ tại 32 địa phương, dẫn đầu là Bà Rịa – Vùng Tàu (8 dự án trị giá 1 tỷ USD), thành phố Hồ Chí Minh (110 dự án trị giá 852,7 triệu USD), Hà Nội (71 dự án trị giá 331 triệu USD).
Vốn đầu tư của Pháp chủ yếu theo hình thức liên doanh (chiếm 34%), hợp đồng hợp tác kinh doanh (21%), đầu tư 100% vốn nước ngoài (20,5%), còn lại là các hình thức công ty cổ phần, BTO, BT và BOT. Quy mô trung bình của một dự án là 11,59 triệu USD/dự án (ở mức thấp so với bình quân chung là 15 triệu USD/dự án).
Một số dự án lớn Pháp đang triển khai tại Việt Nam là: (1) Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông và FCR Vietnam (chi nhánh của France Telecom tại Việt Nam), cấp phép năm 1997, đầu tư 615 triệu USD vào lĩnh vực dịch vụ viễn thông; (2) dự án Công ty cổ phần Cảng Cái Mép, cấp phép năm 2008, do Terminal Link của Pháp đầu tư 520 triệu USD vào hoạt động dịch vụ khai thác cảng; (3) dự án Nhà máy điện Phú Mỹ 2, cấp phép năm 2001, do Tập đoàn Điện lực Pháp (EDF) liên kết với Nhật Bản, với tổng vốn đầu tư là 480 triệu USD. Tập đoàn Hàng không Vũ trụ châu Âu (EADS) đang khảo sát xúc tiến đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất công nghiệp hàng không (lắp ráp linh kiện máy bay) tại Đà Nẵng.
Hiện có 5 doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Pháp với tổng số vốn đạt 1,88 triệu USD, đáng chú ý có (1) Vietnam Airlines đầu tư 20 triệu euro vào dịch vụ bán vé máy vay và marketing; (2) FPT Corporation đầu tư 11 triệu euro kinh doanh phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin; (3) CMC softwares solutions đầu tư 100.000 euro vào lĩnh vực phần mềm và dịch vụ tin học.
III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN:
Hiện Pháp là nhà tài trợ châu Âu song phương ODA hàng đầu cho Việt Nam và Việt Nam đứng thứ 2 trong số các nước hưởng ODA của Pháp tại châu Á (sau Afghanistan) với tổng số vốn cam kết lên đến 18,4 tỷ USD (tính từ năm 1993). Năm 2014, Pháp cam kết cung cấp cho Việt Nam 360 triệu USD. Việt Nam là một trong ít nước được hưởng cả ba kênh viện trợ tài chính của Pháp là viện trợ phát triển chính thức từ ngân khố và cho vay ưu đãi từ Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và từ Quỹ Đoàn kết ưu tiên (FSP).
Cam kết tài trợ của Pháp cho Việt Nam
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
93,2 69 116 388 72,5 100 278 378,26 221 150 339 360
(Đơn vị: triệu USD)
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Theo tinh thần Tài liệu khung về quan hệ đối tác Việt Nam – Pháp giai đoạn 2006-2010 (ký ngày 15/9/2006), Pháp ưu tiên hỗ trợ Việt Nam vào 5 lĩnh vực là xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, chuyển giao công nghệ, nông nghiệp, công nghiệp và tài chính.
Đến nay, Pháp đã cấp cho Việt Nam vay ưu đãi với tổng số vốn đạt 2,2 tỷ euro. Trước đây, các dự án thường có mức vốn trung bình (tối đa 55 triệu euro/dự án). Nay Pháp cam kết mức vốn lớn tới 280 triệu euro/dự án và quan tâm nhiều đến các dự án hạ tầng quy mô lớn. Một số dự án trọng điểm là dự án vệ tinh nhỏ VNREDSAT1 (57,8 triệu euro), trường Đại học Khoa học Công nghệ Hà Nội (100 triệu euro), tầu điện ngầm Hà Nội (280 triệu euro)...
IV. GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO, VĂN HÓA – DU LỊCH, KHOA HỌC CÔNG NGHỆ:
1. Hợp tác giáo dục và đào tạo:
Hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Pháp đã hình thành và phát triển từ đầu những năm 1980. Pháp luôn coi giáo dục và đào tạo là mục tiêu ưu tiên trong hoạt động hợp tác của mình tại Việt Nam, tập trung chủ yếu vào việc giảng dạy và phát triển tiếng Pháp, đào tạo nguồn nhân lực ở bậc đại học, sau đại học trong nhiều lĩnh vực: quản lý kinh tế, ngân hàng, tài chính, luật, công nghệ mới…
Hiện hai bên đang triển khai một số dự án trọng điểm trong lĩnh vực đào tạo như: Chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao tại Việt Nam (PFIEV, Trung tâm đào tạo về quản lý Việt – Pháp (CFVG), dự án thành lập hai Trung tâm Đại học Pháp (PUF) tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, Viện tin học Pháp ngữ (IFI). Tháng 10/2010, trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, do Pháp tài trợ 100 triệu euro, đã khai giảng khóa học đầu tiên. Đây là một trong 4 trường đại học tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam.
Hiện có khoảng 10 quan hệ kết nghĩa giữa các trường THCS hai nước, như trường Koudekerque Branche (vùng Nord Pas de Calais) và trường PTTH Phan Châu Trinh (Đà Nẵng); trường Hồng Bàng (Hải Phòng) và trường song ngữ Viglino (Val d’Aoste); trường tư thục Pháp Saint Joseph d’Izmir và trường PTTH Trần Phú (Hải Phòng). Ngoài ra, có 2 cơ sở đào tạo từ mẫu giáo đến phổ thông trung học của Pháp tại Việt Nam (Trường Pháp quốc tế Alexandre Yersin tại Hà Nội và Trường Pháp quốc tế Colette tại Tp. Hồ Chí Minh).
Hàng năm, Chính phủ Pháp dành 80 suất học bổng cho sinh viên Việt Nam sang Pháp học tập, nhằm giúp Việt Nam trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính sách học bổng của Pháp tập trung chủ yếu cho các chương trình đào tạo ở bậc học thạc sỹ và tiến sỹ. Số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Pháp tăng khoảng 40% trong vòng 10 năm qua và có khoảng 5000 sinh viên (Pháp là nơi có lượng du học sinh Việt Nam lớn thứ 3 trên thế giới). Pháp khẳng định sẽ hợp tác và hỗ trợ Việt Nam thực hiện kế hoạch đào tạo 10 000 tiến sỹ từ nay đến 2020.
2. Hợp tác văn hóa – du lịch:
Giao lưu văn hoá giữa hai nước ngày càng phát triển. Chính phủ Pháp dành ưu tiên hỗ trợ cho chính sách hội nhập văn hóa của Việt Nam với phương châm khẳng định, tôn trọng sự đa dạng văn hoá Việt Nam. Hàng năm, Chính phủ Pháp dành khoảng 5 triệu euro cho ngân sách hợp tác văn hóa với Việt Nam, cụ thể là hỗ trợ hoạt động của các trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace), Tp. Hồ Chí Minh (Viện trao đổi văn hóa Pháp – IDECAF), Huế và Đà Nẵng. Hiệp định giữa hai Chính phủ về các Trung tâm Văn hóa được ký kết (tháng 11/2009) tạo cơ sở và điều kiện cho hoạt động của Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Paris, một trong 2 trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Liên hoan nghệ thuật Festival Huế được tổ chức lần đầu vào tháng 4/2000 với sự tài trợ và tham gia tích cực của Pháp (là đối tác đầu tiên của Festival Huế) đã trở thành một hoạt động văn hóa quốc tế, được tổ chức 2 năm một lần. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng được mời tham gia vào nhiều lễ hội văn hóa nghệ thuật tại Pháp (Lễ hội nghệ thuật Avignon, Lễ hội Biển quốc tế Brest…)
Pháp đứng thứ 7 trong các nước, vùng lãnh thổ có đầu tư nhiều nhất vào lĩnh vực du lịch tại Việt Nam, với 14 dự án tổng trị giá 188 triệu USD. Việt Nam xác định Pháp là thị trường khách trọng điểm. Du lịch Việt Nam đã tham gia và tổ chức một số hoạt động xúc tiến tại Pháp như "Việt Nam – Hoài niệm", Hội báo nhân đạo, Hội chợ Top Resa, Hội chợ du lịch tại đảo Réunion (Pháp) và Salon Mondial tại Paris. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đồng ý về chủ trương mở Văn phòng đại diện Cơ quan du lịch quốc gia tại Pháp.
Hai bên đã phối hợp tổ chức thành công Năm Việt Nam – Pháp (2013-2014) tại hai nước nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương.
3. Hợp tác khoa học công nghệ:
Hợp tác Việt-Pháp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ hiện được thực hiện thông qua các dự án do Quỹ Đoàn kết Ưu tiên (FSP) của Pháp tài trợ. Đây thường là các chương trình lớn, dài hạn về nghiên cứu, phát triển công nghệ, đào tạo phục vụ phát triển kinh tế xã hội; phát huy giá trị văn hóa; tăng cường năng lực về pháp luật và hành chính... Tháng 3/2007, Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ giữa hai Chính phủ đã được ký kết nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các chuyên gia, cơ quan và tổ chức khoa học và công nghệ hai nước tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác.
Hợp tác trong lĩnh vực ứng dụng hạt nhân ngày càng được tăng cường trong khuôn khổ Thỏa thuận giữa Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam và Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử Pháp (CEA) như hợp tác đào tạo cán bộ về công nghệ hạt nhân và khai thác sử dụng chương trình tính toán của CEA, cung cấp tài liệu tuyên truyền về điện hạt nhân cho công chúng. Tháng 11/2009, hai bên đã ký Hiệp định hợp tác về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, tạo khuôn khổ pháp lý cần thiết và những điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức khoa học và công nghệ, các cơ sở giáo dục và đào tạo, các doanh nghiệp hai nước liên quan đến năng lượng hạt nhân tiến hành các hoạt động hợp tác và đầu tư.
V. CÁC LĨNH VỰC KHÁC:
1. Hợp tác an ninh - quốc phòng:
Pháp là nước phương Tây đầu tiên có tùy viên quốc phòng tại Việt Nam (1991). Quan hệ hợp tác này ngày càng phát triển: trao đổi đoàn thường xuyên (Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam thăm Pháp 12/2009; Bộ trưởng Quốc phòng Pháp thăm Việt Nam 7/2010), tổ chức họp tham mưu hàng năm, đối thoại an ninh, hỗ trợ xuất khẩu trang thiết bị khí tài, đào tạo sĩ quan, chiến hạm của Hải quân Pháp cập cảng Việt Nam. Trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng hai nước gần đây, hai bên nhất trí Việt Nam và Pháp là quan hệ đối tác chiến lược trong lĩnh vực quốc phòng.
Hai nước đã ký Hiệp định hợp tác Thỏa thuận khung giữa hai nước được ký vào năm 1997. Tháng 11/2009, hai bên đã ký Thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng thống nhất tổ chức luân phiên hàng năm Ủy ban hỗn hợp về hợp tác quốc phòng để trao đổi về các vấn đề chiến lược và kế hoạch trang bị cho quân đội Việt Nam. Phiên họp đầu tiên của Ủy ban hỗn hợp về hợp tác quốc phòng (cấp Thứ trưởng) được tổ chức tháng 3/2010 tại Hà Nội.
2. Hợp tác địa phương (hợp tác phi tập trung):
Khởi xướng từ đầu những năm 1990, hợp tác phi tập trung Việt – Pháp trở thành nét đặc thù trong quan hệ Việt – Pháp. Việt Nam chiếm một vị trí đặc biệt trong chính sách hợp tác quốc tế của các địa phương Pháp. Hiện có 38 địa phương của Pháp có quan hệ đối tác với 18 tỉnh/thành Việt Nam. Từ năm 1990, có 235 dự án hợp tác phi tập trung giữa địa phương hai nước tại các trung tâm lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Thừa Thiên Huế… Các dự án hợp tác tập trung trong lĩnh vực y tế, giáo dục, nước và vệ sinh, bảo tồn di sản, cộng đồng pháp ngữ, phát triển nông thôn, phát triển bền vững, với quy mô không lớn nhưng nhìn chung có tác dụng tốt.
Từ năm 1996, hai nước tổ chức gặp gỡ và thảo luận về tình hình hợp tác giữa các tại phương nhằm đánh giá hoạt động hợp tác và trao đổi kinh nghiệm hợp tác giữa địa phương hai nước. Tính đến nay (2015), hai nước đã phối hợp tổ chức thành công 9 kỳ họp luân phiên tại Pháp và Việt Nam: Hội nghị lần 9 đã được tổ chức vào 10-12/6/2013 tại thành phố Brest với chủ đề “Hướng tới một mô hình mới về phát triển: vai trò và cơ hội của các địa phương Việt Nam và Pháp, cũng như các đối tác khác tại địa phương”; Hội nghị lần 10 được thống nhất sẽ diễn ra tại Thành phố Cần Thơ vào tháng 6/2016.
3. Hợp tác nhiều bên:
Giữa Việt Nam, Pháp với/hoặc một tổ chức tài trợ và một số nước châu Phi như Mali, Burkina Faso, Senegal trong cách lĩnh vực nông nghiệp, y tế… đã thu được những kết quả tốt và được các nước thụ hưởng hoan nghênh và đề nghị nhân rộng.
4. Hợp tác y tế:
Hiện có 30 dự án hợp tác đào tạo y học và cận y học như đào tạo bác sỹ nội trú tại các bệnh viện Pháp. Các dự án hợp tác này được tài trợ từ các Quỹ đối tác bệnh viện của Bộ Ngoại giao Pháp, Chương trình liên đới mạng điều trị (ESTHER) và quỹ riêng của các bệnh viện Pháp. Hợp tác y tế Việt-Pháp ưu tiên đào tạo ngành y, củng cố đào tạo nhân viên chăm sóc, củng cố khả năng quản lý bệnh viện. Hai bên đang nghiên cứu hiện đại hóa trường Đại học Y Hà Nội thành viện trường theo mô hình CHU (Centre hospitalier universitaire) của Pháp.
5. Pháp ngữ:
Đều là thành viên của Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ, hai nước có nhiều hoạt động hợp tác trong khuôn khổ tổ chức Pháp ngữ, đặc biệt trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Pháp, giảng dạy đại học, các hoạt động nghị viện…
VI. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI PHÁP:
1. Tình hình chung:
Cộng đồng người Việt Nam tại Pháp được hình thành từ những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918, đến Pháp trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, tổng số hiện nay khoảng trên 300.000 người, phần lớn đã vào quốc tịch Pháp, gồm nhiều thành phần nhưng chủ yếu là người lao động, viên chức, buôn bán nhỏ và học sinh sinh viên. Cộng đồng ngày càng tăng thêm về số lượng và đa dạng hơn về thành phần do ngày càng có nhiều học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh sang học tập (khoảng 7.000 người), một số không nhỏ từ các nước Đông Âu sang.
2. Các hội đoàn người Việt:
Hội đoàn lớn nhất của người Việt ở Pháp là Hội người Việt Nam tại Pháp. Đây là hội đoàn có bề dày truyền thống, đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc trước đây và xây dựng đất nước ngày nay. Hiện Hội có 3 chi hội (Lyon, Marseille, Bordeaux) và 2 hội cơ sở (Công nhân, Thương gia).
Hội Phật tử Việt Nam tại Pháp cũng là một hội đoàn lớn với nơi sinh hoạt tâm linh là chùa Trúc Lâm Paris và Trúc Lâm Marseille. Trong cộng đồng Phật tử còn có Làng Mai mà người đứng đầu là thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là một cơ sở rất lớn ngoài các cơ sở khác của Làng ở Mỹ, Úc với số lượng hàng chục ngàn người theo học mỗi năm, chưa kể số tu sĩ xuất gia.
Ngoài ra, những năm gần đây các tổ chức phi chính trị của Việt kiều hoặc do Việt kiều sáng lập bước đầu có bước phát triển với hình thức chủ yếu là quyên góp ủng hộ đồng bào gặp khó khăn trong nước.
3. Lực lượng trí thức:
Tri thức là thế mạnh của cộng đồng người Việt tại Pháp. Hiện có khoảng 40.000 Việt kiều có trình độ đại học hoặc trên đại học thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, chiếm 12% trong cộng đồng người Việt Nam tại Pháp. Phần lớn trí thức Việt kiều là những người đã sang Pháp thời gian trước và sau năm 1954 và con cái họ sinh trưởng tại Pháp. Một số có trình độ chuyên môn cao, là chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm làm việc tại các trường đại học, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), các viện nghiên cứu, các cơ quan hành chính, kỹ thuật.
VII. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI PHÁP TẠI VIỆT NAM:
Số người Pháp đăng ký cư trú tại Việt Nam ngày càng tăng, tính đến năm 2013 đạt 6.304 người, tăng gần gấp 2,5 lần so với 2.558 người năm 2002. Những người Pháp có mặt tại Việt Nam thường tập trung chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh và làm việc tại các doanh nghiệp Pháp tại Việt Nam, các cơ sở giảng dạy, đào tạo.
VIII. CÁC HIỆP ĐỊNH ĐÃ KÝ GIỮA HAI NƯỚC:
- Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật (1989),
- Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1992),
- Hiệp định hợp tác y tế và y học (1992),
- Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần (1993),
- Hiệp định về hợp tác pháp luật và tư pháp (1993),
- Hiệp định hợp tác về du lịch (1996),
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự (1999),
- Hiệp định hợp tác hàng hải (2000),
- Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi (2000),
- Hiệp định về miễn thị thực lưu trú ngắn hạn đối với người mang hộ chiếu ngoại giao (2004),
- Hiệp định hợp tác khoa học công nghệ (2007).
- Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội (2009),
- Hiệp định về hợp tác sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình (2009),
- Hiệp định về các Trung tâm Văn hóa (2009),
- Hiệp định về việc thành lập và phát triển Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (2009).
- Tuyên bố chung về quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Pháp (2013)./.
Cập nhật 06-05-2016
THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ CỘNG HÒA PHÁP
---*---
I. Giới thiệu chung:
Tên nước: Cộng hoà Pháp (French Republic/République francaise)
Thủ đô: Paris
Quốc khánh: 14 tháng 7
Vị trí địa lý: Tây Âu, giáp ranh với Bỉ và Lúc-xăm-bua (Luxembourg) về phía Đông-Bắc, Đức và Thụy Sĩ về phía Đông, Italia và Mô-na-cô (Monaco) về phía Đông-Nam, Tây Ban Nha và An-đô-ra (Andorra) về phía Tây-Nam
Diện tích: 551.602 km2
Khí hậu: Ôn đới
Dân số: 66.030.000 , đứng thứ 2 trong EU (sau Đức)
Dân tộc: Pháp
Ngôn ngữ: Tiếng Pháp
Đơn vị tiền tệ: Đồng Eu-rô (Euro)
GDP: 2.827 tỷ USD (2014), đứng thứ 6 thế giới
GDP đầu người: 44.538 USD (2014, đứng thứ 39 trên thế giới)
Tôn giáo: Cơ đốc giáo (58%), Hồi giáo (6%), Tin lành (2%), Do Thái (1%) , không theo tôn giáo (32%)
Cơ cấu hành chính: 13 vùng, 101 tỉnh và 36.686 huyện/thành
Lãnh đạo chủ chốt:
• Tổng thống: Phờ-răng-xoa Ô-lăng-đơ (Francois Hollande)
• Chủ tịch Quốc hội: Cờ-lốt Bác-tô-lôn (Claude Bartolone)
• Chủ tịch Thượng viện: Dê-ra Lác-sờ (Gérard Larcher)
• Thủ tướng: Manuel Valls (Ma-nuy-en Van-sờ)
• Bộ trưởng Ngoại giao và Phát triển quốc tế: Giăng – Mác E-rô (Jean-Marc Ayrault)
II. Khái quát lịch sử:
Nước Pháp là nước có lịch sử lâu đời ở châu Âu. Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa 1000 năm trước công nguyên.
Từ La Mã đến Cách mạng:
Tới năm 59 trước công nguyên xứ Gôn bị đế chế La Mã chinh phục và đô hộ trong 400 năm và chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá La Mã.
Triều đại đầu tiên của lịch sử Pháp là Mérovingien kéo dài từ đầu thế kỷ 5 tới năm 751. Năm 843, sau hiệp ước Verdun (chia cắt đế chế Charlemagne), Charles II trở thành vị vua đầu tiên cai trị nước Pháp độc lập. Từ vị vua đầu tiên là Charles II tới hoàng đế cuối cùng là Napoléon III, ba dòng họ cai trị nước Pháp là dòng họ Carolingien, Capétien và Bonaparte. Chế độ phong kiến phát triển đỉnh điểm ở thế kỷ 17 thời vua Louis XIV.
Từ quân chủ đến nước Pháp đương đại:
Thế kỷ 18, nền văn minh Pháp và tiếng Pháp phát triển rực rỡ ở châu Âu với kỷ nguyên ánh sáng và các nhà triết học nổi tiếng như Montesquieu, Voltaire, Diderot, Rousseau…
Chế độ quân chủ tồn tại cho tới cuộc Cách mạng Pháp, năm 1789. Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đi vào lịch sử với Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Năm 1871, Công xã Paris - cuộc cách mạng vô sản đầu tiên - thắng lợi ở Pháp, nhưng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn.
Từ thế kỷ 17 đến 1960, Pháp là quốc gia sở hữu nhiều nước thuộc địa. Trong thế kỷ 19 và 20, đế chế thuộc địa toàn cầu của họ lớn thứ hai thế giới, chỉ sau đế chế Anh. Vào đỉnh điểm (1919 – 1939), đế chế thuộc địa Pháp chiếm 8,6% diện tích đất liền thế giới.
Là nước thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng Pháp phải chịu nhiều tổn thất to lớn cả về người và của. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, sau một một trận đánh ngắn và dữ dội (1940), Pháp đã quyết định đầu hàng Đức. Phản đối quyết định này của Chính phủ, Tướng de Gaulle thành lập các Lực lượng Pháp Tự do bên ngoài nước Pháp và Kháng chiến Pháp trong nước, và cùng quân đồng minh giải phóng Pháp năm 1944.
Pháp đã trải qua nhiều nền cộng hòa; hiện nay là nền cộng hòa thứ 5.
III. Thể chế nhà nước và đảng phái chính trị:
1. Thể chế nhà nước Cộng hoà:
Nước Pháp theo chế độ Nghị viện - Tổng thống. Tổng thống do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm và có quyền lực lớn: bổ nhiệm Thủ tướng, chủ trì Hội đồng Bộ trưởng, giải tán Quốc hội và quyết định tổ chức trưng cầu dân ý về các vấn đề quan trọng... Theo hiến pháp, Tổng thống là lãnh đạo cao nhất về chính sách đối ngoại và quốc phòng. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, có trách nhiệm trước Quốc hội, giữ quyền xây dựng luật trong phạm vi của mình và đảm bảo thi hành pháp luật.
Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, gồm Quốc hội và Thượng viện. Quốc hội do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm (577 đại biểu). Thượng viện được bầu gián tiếp (348 đại biểu do các uỷ viên hội đồng vùng, tỉnh và các nghị sĩ Quốc hội bầu ra), nhiệm kỳ 6 năm, 3 năm bầu lại ½. Với việc bỏ phiếu bất tín nhiệm, Quốc hội có thể bãi miễn chính phủ.
2. Các đảng phái chính trị:
2.1. Các đảng phái cánh tả:
- Đảng Xã hội: thành lập 1905, đầu những năm 70 phát triển mạnh, có tổ chức sâu rộng trong xã hội. Đảng Xã hội là đảng lớn thứ 2 tại Pháp với khoảng 205.000 đảng viên . Bí thư thứ nhất Đảng Xã hội hiện là ông Jean – Christophe Cambadélis.
- Đảng Cộng sản: ra đời năm 1920, theo đường lối mác-xít, với mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng con đường hoà bình. Đảng Cộng sản là đảng lớn thứ 3 tại Pháp với 135.000 đảng viên. Bí thư toàn quốc Đảng Cộng sản Pháp hiện là đồng chí Pierre Laurent.
- Đảng Xanh (Les Verts): thành lập 1984, chủ trương "đoàn kết, có trách nhiệm đối với hành tinh và trách nhiệm công dân". Hiện Chủ tịch Đảng là bà Cécile Duflot.
Ngoài ra còn có các đảng khác như : Phong trào Công dân (Mouvement des citoyens); Đảng Xã hội cấp tiến (Parti Radical Socialiste); Đảng Đấu tranh Công nhân (Lutte Ouvrière)...
2.2. Các đảng phái cánh hữu:
- Đảng Những người Cộng hòa (Les Républicains) thành lập tháng 4/2002, tập hợp các đảng Tập hợp vì nền cộng hòa (RPR) và cánh trung hữu của Lực lượng Dân chủ. Les Républicains là đảng đối lập lớn nhất hiện nay tại Pháp với 250.000 đảng viên. Tháng 5/2015, cựu Tổng thống Nicolas Sarkozy được bầu làm Chủ tịch Đảng.
- Đảng cực hữu Mặt trận Quốc gia - Front National: thành lập năm 1972. Đầu năm 1999, chia thành 2 đảng Mặt trận Quốc gia và Mặt trận Quốc gia - Phong trào Quốc gia (Front National - Mouvement National). Chủ tịch Đảng hiện nay là bà Marine Le Pen.
2.3. Các Đảng trung dung:
- Đảng Phong trào Dân chủ (MoDem): do ông François Bayrou thành lập tháng 12/2007 và làm Chủ tịch trên cơ sở lực lượng UDF trung thành với ông (đảng UDF không còn tồn tại). MoDem hiện có khoảng 70.000 đảng viên.
- Đảng Liên minh Dân chủ và Độc lập (UDI) do ông Jean – Louis Borloo thành lập tháng 9/2012, tập hợp các Đảng Parti Radical, Nouveau Centre và Alliance centriste. NC hiện có khoảng hơn 27.000 đảng viên. Hiện Chủ tịch Đảng là ông Jean – Christophe Lagarde.
IV. Kinh tế:
Pháp là cường quốc kinh tế lớn thứ 5 thế giới, đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu dịch vụ. Pháp có số lượng doanh nghiệp rất lớn, trong đó có doanh nghiệp hàng đầu thế giới. Pháp có truyền thống lâu đời trong phát minh công nghiệp, hệ thống giáo dục chất lượng cao, đội ngũ nghiên cứu trình độ cao; đầu tư nhiều cho công tác nghiên cứu-phát triển; năng suất lao động thuộc loại hàng đầu thế giới.
- Thu nhập quốc dân (GDP) 2015: 2.085 tỷ euro
- Tăng trưởng GDP cả năm 2015: 1,1 %
- Tỷ lệ thất nghiệp (quý IV/2015): 10,3% (2,9 triệu người)
- Nợ công (2015): 96,9% GDP (2103,2 tỷ euro)
- Thâm hụt cán cân thương mại (2015) : 45,7 tỷ euro. Xuất khẩu đạt 437,3 tỷ euro, đứng thứ 6 thế giới (sau Trung Quốc, Mỹ, Đức, Anh và Nhật), tập trung vào thị trường xe hơi, thiết bị văn phòng và điện tử, thiết bị giao thông vận tải, hoá hữu cơ, sản phẩm dược, xây dựng sân bay, máy móc, nông sản chế biến, lương thực. Nhập khẩu đạt 491,1 tỷ euro, đứng thứ 6 thế giới (sau Mỹ, Trung Quốc, Đức, Anh và Nhật). Hai phần ba trao đổi thương mại của Pháp là với các đối tác trong EU.
- Đầu tư nước ngoài : Pháp đứng thứ 4 trên thế giới về đầu tư ra nước ngoài, đạt 1200 tỷ $ (12/2014), dự kiến năm 2015 tăng lên 1400 tỷ $, tăng 11% so với năm 2014, sau Mỹ, Anh và Trung Quốc, tập trung chủ yếu tại Trung Quốc, châu Âu và Bắc Mỹ (chiếm ¾ tổng vốn đầu tư của Pháp). Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư hàng năm ra nước ngoài của Pháp năm 2014 tăng lên 43 tỷ $, đứng thứ 8 trên thế giới (so với vị trí thứ 15 năm 2013). Pháp là địa chỉ hấp dẫn thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung Quốc và Anh về thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư của nước ngoài vào Pháp năm 2014 đạt 15 tỷ $. Song, nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Pháp hàng năm cũng có xu hướng giảm sút, từ vị trí thứ 10 trên thế giới năm 2010 xuống vị trí thứ 42 năm 2013.
Nông nghiệp: Pháp là nước đứng đầu châu Âu về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Hàng năm Pháp xuất siêu khoảng 6,6 tỷ USD hàng nông sản (gồm lúa mì, rượu nho, các sản phẩm thịt và sữa). Năng suất lao động nông nghiệp cao, công nghiệp chế biến thực phẩm rất phát triển chiếm xấp xỉ 3,5% GDP.
Các ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn:
- Chế tạo cơ khí, nhất là sản xuất ôtô (thứ 4 thế giới với các công ty như PSA Peugeot-Citroen, Renault, Michelin).
- Hàng không (thứ 3 thế giới với các công ty lớn như EADS, Arianespace, Airbus, Dassault Aviation)
- Năng lượng (Total, Areva, EDF, GDF Suez)
- Thiết bị giao thông vận tải (Alstom, Vinci)
- Vật liệu xây dựng, thiết bị (Lafarge, Saint-Gobain, Arcelor-Mittal)
- Viễn thông (Alcatel, France Telecom, Bouygues)
- Công nghiệp dược (thứ 5 thế giới, Rhône-Poulenc, Sanofi-Aventis)
- Mỹ phẩm và thời trang cao cấp (Oréal, LVMH)
- Dịch vụ tài chính ngân hàng (Dexia, Credit Agricole, Société générale, BNP Paribas), bảo hiểm (AXA), thông tin truyền thông (Vivendi, Canal+, Lagardère SCA), lĩnh vực phân phối (Carrefour, Casino)
- Lượng khách du lịch tới Pháp đứng hàng đầu thế giới, thu hút 90 triệu lượt khách (2010) .
V. Chính sách đối ngoại:
Pháp ủng hộ mạnh mẽ việc hình thành một thế giới đa cực, trong đó EU đóng vai trò nòng cốt.
1. Với châu Âu: Ưu tiên hàng đầu là xây dựng và củng cố quan hệ với châu Âu. Dưới thời Tổng thống Sarkozy, Pháp chủ trương xây dựng châu Âu theo hướng: coi trọng việc khởi động lại tiến trình nhất thể hoá châu Âu; thuyết phục các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) thông qua Hiến pháp giản đơn; tăng cường vai trò quốc tế của EU và củng cố vai trò của Pháp tại châu Âu; thúc đẩy quan hệ với các nước Đông và Trung Âu sau thời kỳ lạnh nhạt dưới thời Tổng thống Chirac; tăng cường khả năng phòng thủ của EU (theo hướng lên kế hoạch tác chiến và chỉ huy các chiến dịch, phát triển các chương trình vũ khí mới, nâng cao khả năng tác chiến của quân đội các nước, hoàn thành dự thảo “Chiến lược an ninh châu Âu”).
Dưới thời TTh Hollande, tuy muốn tạo ra phong cách khác với Sarkozy nhưng về cơ bản, các ưu tiên và định hướng đối ngoại lớn không thay đổi, dựa nhiều trên các tính toán về lợi ích và thực lực hiện nay của Pháp, tiếp tục chú ý nhiều đến các khu vực kế cận, các đối tác lớn, đã có một số bước triển khai khá mạnh tới khu vực châu Âu, châu Phi, Trung Đông, củng cố quan hệ với Mỹ, điều chỉnh quan hệ với Đức cho cân bẳng hơn, thể hiện vai trò tích cực đối với các khủng hoảng khu vực như Syrie, Mali, Israel, Iran… Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, Pháp chủ trương đẩy mạnh vai trò “Ngoại giao kinh tế”. TTh Hollande cũng tỏ quan tâm hơn tới Châu Á (tham dự ASEM, Pháp ký ĐTCL với Singapour, lãnh đạo Pháp thăm Philipines, quan tâm tới chuyển biến tại Myanmar).
2. Với Mỹ: Chính sách đối ngoại độc lập với Mỹ trong những vấn đề quốc tế và toàn cầu luôn được coi là “bản sắc ngoại giao Pháp”, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh Irak. Từ nhiệm kỳ 2, Tổng thống Chirac đã có những bước điều chỉnh nhằm hàn gắn quan hệ với Mỹ. Tổng thống Sarkozy một mặt khẳng định chính sách xích lại với Mỹ, là “đồng minh” của Mỹ, đặc biệt với việc quay lại các cơ chế lãnh đạo của NATO, tăng cường hiện diện tại Afghanistan hoặc cam kết tại Irak, nhưng vẫn duy trì “bản sắc Pháp” qua một số hồ sơ lớn như quan hệ với Nga, biến đổi khí hậu…
3. Với Trung Đông: Pháp tăng cường được sự hiện diện và vai trò của mình tại khu vực như việc đăng cai Hội nghị tái thiết Trung Đông, xích lại với Israel, gia tăng vai trò trung gian hòa giải của Pháp đối với cuộc xung đột vũ trang giữa Israel và Palestine, tăng cường ảnh hưởng tại các quốc gia vùng Vịnh (Ả-rập Xê-út, Qatar và các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất). Đặc biệt là đi đầu trong việc can thiệp giải quyết khủng hoảng tại các nước Bắc phi trong thời gian qua.
4. Với châu Phi: Pháp tiếp tục coi châu Phi là một ưu tiên, thúc đẩy sáng kiến Liên minh Địa Trung Hải, chủ trương triển khai Cơ chế đồng phát triển với các nước châu Phi da đen trước đây là thuộc địa của Pháp. Tuy nhiên, ngân sách hỗ trợ cho châu Phi đã bị cắt giảm và vai trò của Pháp tiếp tục suy giảm do chưa giải quyết dứt điểm được những cuộc khủng hoảng chính trị - quân sự đã kéo dài nhiều năm tại một số quốc gia châu Phi.
5. Với châu Á - Thái Bình Dương: Tiếp tục duy trì quan hệ cân bằng với các cường quốc như Nga, Nhật Bản. Chủ động đẩy mạnh quan hệ, đối thoại với một số nước mới nổi. Quan hệ với Trung Quốc đặc biệt được coi trọng do vị trí địa-chiến lược quốc tế ngày càng quan trọng, tiềm năng kinh tế dồi dào.
6. Với Liên Hợp Quốc: Là thành viên thường trực của Hội đồng bảo an/Liên hợp quốc (LHQ), Pháp đề cao vai trò của LHQ, ủng hộ cải tổ LHQ, mở rộng HĐBA-LHQ, tích cực tham gia các hoạt động can thiệp của LHQ trong các cuộc xung đột khu vực, cử quân đội tham gia lực lượng của LHQ. Pháp là nước có số quân đông nhất tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của LHQ (gần 10.000 người).
7. Chính sách quốc phòng: Trong chiến lược quốc phòng sau chiến tranh lạnh, Pháp chủ trương xây dựng lực lượng quốc phòng trong khuôn khổ đa phương (trong NATO, trong Liên minh Tây Âu (UEO), hay trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc) và trong khuôn khổ các Hiệp định song phương với các nước (đặc biệt với các nước châu Phi). Pháp thực hiện cải cách quốc phòng nhằm xây dựng một quân đội chuyên nghiệp (từ 2002), thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự tự nguyện; cắt giảm ngân sách và quân số, xây dựng quân đội dựa trên 4 lực lượng: răn đe hạt nhân, phòng ngừa, triển khai nhanh và bảo vệ (an ninh trong nước). Cải cách quân đội đi đôi với tổ chức lại nền công nghiệp quốc phòng để có khả năng cung cấp cho quân đội những vũ khí hiện đại nhất và tham gia xây dựng nền công nghiệp quốc phòng châu Âu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường vũ khí thế giới.
QUAN HỆ VIỆT NAM – PHÁP
I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ:
Việt Nam và Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ ngày 12/4/1973.
1. Các giai đoạn phát triển:
- Giai đoạn 1975-1978: Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam và Pháp tăng cường quan hệ nhiều mặt. Pháp bắt đầu hỗ trợ ta trong quá trình khôi phục đất nước. Đỉnh cao quan hệ là chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tháng 4/1977.
- Trong những năm 80, quan hệ hai nước bị ngưng đọng do vấn đề Campuchia. Trong khi Mỹ và các nước phương Tây thi hành chính sách cô lập Việt Nam, gây sức ép đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, Pháp giữ thái độ chừng mực.
- Từ năm 1989, quan hệ Việt-Pháp được cải thiện trở lại. Pháp đã đi đầu các nước phương Tây trong khai thông quan hệ với Việt Nam, xoá nợ cho Việt Nam, giúp Việt Nam giải quyết nợ với các nước chủ nợ thành viên CLB Paris.
- Từ đó đến nay, Việt Nam và Pháp đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao. Về phía Pháp, đã có 4 chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao Pháp sang Việt Nam (Tổng thống Mitterrand 1993, Tổng thống Chirac năm 1997 và 2004; Thủ tướng Fillon tháng 11/2009, Chủ tịch Thượng viện Poncelet thăm Việt Nam năm 2003 và 2008). Về phía Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Pháp năm 2000, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm Pháp năm 2005, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Pháp năm 2002, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Pháp năm 1993, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Pháp năm 1998 và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm Pháp năm 2007 và 2013, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An thăm Pháp 2005 và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng thăm Pháp năm 2008. Ngoài ra trong năm 2013, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh thăm Pháp (3/2013), Bộ trưởng Ngoại giao Laurent Fabius thăm Việt Nam (8/2013).
- Nhân chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (9/2013), hai nước đã ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Pháp, là cơ sở đưa quan hệ hai nước ngày càng phát triển sâu rộng.
2. Các cơ chế hợp tác:
Hai nước có nhiều cơ chế hợp tác, đáng lưu ý có:
- Đối thoại chiến lược an ninh quốc phòng giữa 2 Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Pháp, do Bộ Ngoại giao chủ trì, họp thường kỳ hai năm một lần. Kỳ họp lần thứ 5 đã diễn ra tại Việt Nam từ ngày 15-16/3/2012. Dự kiến, kỳ họp lần thứ 6, và cũng là kỳ họp lần đầu tiên ở cấp Thứ trưởng, sẽ diễn ra tại Paris vào đầu năm 2016.
- Đối thoại cấp cao thường niên về kinh tế: Là cơ chế sát nhập Hội đồng cấp cao vì sự phát triển hợp tác kinh tế Việt – Pháp và Diễn đàn kinh tế tài chính Việt – Pháp, do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam và Bộ trưởng Ngoại thương Pháp đồng chủ trì và họp phiên đầu tiên ngày 9/4/2013. Phiên họp lần thứ 3 diễn ra tại Hà Nội ngày 15/4/2015. Đây là cơ chế nhằm thảo luận các vấn đề chung trong hợp tác kinh tế hai nước, cũng như các dự án kinh tế song phương cụ thể. Ngoài ra, tại Đối thoại, hai bên cũng tổ chức phiên Diễn đàn doanh nghiệp, quy tụ nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ của Pháp và Việt Nam tham gia.
II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ:
1. Thương mại:
Pháp là đối tác thương mại châu Âu lớn thứ năm của Việt Nam (sau Đức, Anh, Hà Lan, Ý). Trao đổi thương mại hai chiều năm 2015 đạt 4,2 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2014, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Pháp đạt 2.9 tỷ USD (tăng 23% so với năm 2014; chủ yếu là giày dép, dệt may, đồ gia dụng, thủy sản và máy móc thiết bị, linh kiện điện tử) và kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Pháp tăng 10% so với năm 2014, đạt 1,3 tỷ USD (chủ yếu là thiết bị hàng không, dược phẩm, sản phẩm cơ khí, sản phẩm điện tử, hóa chất và đồ uống có cồn).
Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Pháp
(đơn vị: triệu USD)
2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
XK 971 809 1095 1659 2163 2206 2399 2952
NK 829 864 969 1205 1589 995 1143 1260
XNK 1800 1673 2064 2864 3752 3201 3542 4212
(Nguồn: Tổng Cục Thống kê)
2. Đầu tư:
Pháp đầu tư vào Việt Nam từ năm 1988. Tính đến 10/2015, Pháp đứng thứ 2 trong các nước châu Âu (sau Hà Lan) và đứng thứ 16 trong tổng số 105 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, với 448 dự án đầu tư còn hiệu lực, tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt hơn 3,4 tỷ USD. Đầu tư trực tiếp của Pháp tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: thông tin và truyền thông (22,9% tổng vốn đầu tư), dịch vụ (17,7%), lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, nước, điều hòa (17%), công nghiệp (12%) và còn lại là nông nghiệp, phân phối hàng hóa, giải trí, xây dựng và tài chính ngân hàng; phân bổ tại 32 địa phương, dẫn đầu là Bà Rịa – Vùng Tàu (8 dự án trị giá 1 tỷ USD), thành phố Hồ Chí Minh (110 dự án trị giá 852,7 triệu USD), Hà Nội (71 dự án trị giá 331 triệu USD).
Vốn đầu tư của Pháp chủ yếu theo hình thức liên doanh (chiếm 34%), hợp đồng hợp tác kinh doanh (21%), đầu tư 100% vốn nước ngoài (20,5%), còn lại là các hình thức công ty cổ phần, BTO, BT và BOT. Quy mô trung bình của một dự án là 11,59 triệu USD/dự án (ở mức thấp so với bình quân chung là 15 triệu USD/dự án).
Một số dự án lớn Pháp đang triển khai tại Việt Nam là: (1) Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông và FCR Vietnam (chi nhánh của France Telecom tại Việt Nam), cấp phép năm 1997, đầu tư 615 triệu USD vào lĩnh vực dịch vụ viễn thông; (2) dự án Công ty cổ phần Cảng Cái Mép, cấp phép năm 2008, do Terminal Link của Pháp đầu tư 520 triệu USD vào hoạt động dịch vụ khai thác cảng; (3) dự án Nhà máy điện Phú Mỹ 2, cấp phép năm 2001, do Tập đoàn Điện lực Pháp (EDF) liên kết với Nhật Bản, với tổng vốn đầu tư là 480 triệu USD. Tập đoàn Hàng không Vũ trụ châu Âu (EADS) đang khảo sát xúc tiến đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất công nghiệp hàng không (lắp ráp linh kiện máy bay) tại Đà Nẵng.
Hiện có 5 doanh nghiệp Việt Nam đầu tư tại Pháp với tổng số vốn đạt 1,88 triệu USD, đáng chú ý có (1) Vietnam Airlines đầu tư 20 triệu euro vào dịch vụ bán vé máy vay và marketing; (2) FPT Corporation đầu tư 11 triệu euro kinh doanh phần mềm và dịch vụ công nghệ thông tin; (3) CMC softwares solutions đầu tư 100.000 euro vào lĩnh vực phần mềm và dịch vụ tin học.
III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN:
Hiện Pháp là nhà tài trợ châu Âu song phương ODA hàng đầu cho Việt Nam và Việt Nam đứng thứ 2 trong số các nước hưởng ODA của Pháp tại châu Á (sau Afghanistan) với tổng số vốn cam kết lên đến 18,4 tỷ USD (tính từ năm 1993). Năm 2014, Pháp cam kết cung cấp cho Việt Nam 360 triệu USD. Việt Nam là một trong ít nước được hưởng cả ba kênh viện trợ tài chính của Pháp là viện trợ phát triển chính thức từ ngân khố và cho vay ưu đãi từ Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và từ Quỹ Đoàn kết ưu tiên (FSP).
Cam kết tài trợ của Pháp cho Việt Nam
2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
93,2 69 116 388 72,5 100 278 378,26 221 150 339 360
(Đơn vị: triệu USD)
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Theo tinh thần Tài liệu khung về quan hệ đối tác Việt Nam – Pháp giai đoạn 2006-2010 (ký ngày 15/9/2006), Pháp ưu tiên hỗ trợ Việt Nam vào 5 lĩnh vực là xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, chuyển giao công nghệ, nông nghiệp, công nghiệp và tài chính.
Đến nay, Pháp đã cấp cho Việt Nam vay ưu đãi với tổng số vốn đạt 2,2 tỷ euro. Trước đây, các dự án thường có mức vốn trung bình (tối đa 55 triệu euro/dự án). Nay Pháp cam kết mức vốn lớn tới 280 triệu euro/dự án và quan tâm nhiều đến các dự án hạ tầng quy mô lớn. Một số dự án trọng điểm là dự án vệ tinh nhỏ VNREDSAT1 (57,8 triệu euro), trường Đại học Khoa học Công nghệ Hà Nội (100 triệu euro), tầu điện ngầm Hà Nội (280 triệu euro)...
IV. GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO, VĂN HÓA – DU LỊCH, KHOA HỌC CÔNG NGHỆ:
1. Hợp tác giáo dục và đào tạo:
Hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Pháp đã hình thành và phát triển từ đầu những năm 1980. Pháp luôn coi giáo dục và đào tạo là mục tiêu ưu tiên trong hoạt động hợp tác của mình tại Việt Nam, tập trung chủ yếu vào việc giảng dạy và phát triển tiếng Pháp, đào tạo nguồn nhân lực ở bậc đại học, sau đại học trong nhiều lĩnh vực: quản lý kinh tế, ngân hàng, tài chính, luật, công nghệ mới…
Hiện hai bên đang triển khai một số dự án trọng điểm trong lĩnh vực đào tạo như: Chương trình đào tạo kỹ sư chất lượng cao tại Việt Nam (PFIEV, Trung tâm đào tạo về quản lý Việt – Pháp (CFVG), dự án thành lập hai Trung tâm Đại học Pháp (PUF) tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, Viện tin học Pháp ngữ (IFI). Tháng 10/2010, trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, do Pháp tài trợ 100 triệu euro, đã khai giảng khóa học đầu tiên. Đây là một trong 4 trường đại học tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam.
Hiện có khoảng 10 quan hệ kết nghĩa giữa các trường THCS hai nước, như trường Koudekerque Branche (vùng Nord Pas de Calais) và trường PTTH Phan Châu Trinh (Đà Nẵng); trường Hồng Bàng (Hải Phòng) và trường song ngữ Viglino (Val d’Aoste); trường tư thục Pháp Saint Joseph d’Izmir và trường PTTH Trần Phú (Hải Phòng). Ngoài ra, có 2 cơ sở đào tạo từ mẫu giáo đến phổ thông trung học của Pháp tại Việt Nam (Trường Pháp quốc tế Alexandre Yersin tại Hà Nội và Trường Pháp quốc tế Colette tại Tp. Hồ Chí Minh).
Hàng năm, Chính phủ Pháp dành 80 suất học bổng cho sinh viên Việt Nam sang Pháp học tập, nhằm giúp Việt Nam trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính sách học bổng của Pháp tập trung chủ yếu cho các chương trình đào tạo ở bậc học thạc sỹ và tiến sỹ. Số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Pháp tăng khoảng 40% trong vòng 10 năm qua và có khoảng 5000 sinh viên (Pháp là nơi có lượng du học sinh Việt Nam lớn thứ 3 trên thế giới). Pháp khẳng định sẽ hợp tác và hỗ trợ Việt Nam thực hiện kế hoạch đào tạo 10 000 tiến sỹ từ nay đến 2020.
2. Hợp tác văn hóa – du lịch:
Giao lưu văn hoá giữa hai nước ngày càng phát triển. Chính phủ Pháp dành ưu tiên hỗ trợ cho chính sách hội nhập văn hóa của Việt Nam với phương châm khẳng định, tôn trọng sự đa dạng văn hoá Việt Nam. Hàng năm, Chính phủ Pháp dành khoảng 5 triệu euro cho ngân sách hợp tác văn hóa với Việt Nam, cụ thể là hỗ trợ hoạt động của các trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace), Tp. Hồ Chí Minh (Viện trao đổi văn hóa Pháp – IDECAF), Huế và Đà Nẵng. Hiệp định giữa hai Chính phủ về các Trung tâm Văn hóa được ký kết (tháng 11/2009) tạo cơ sở và điều kiện cho hoạt động của Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Paris, một trong 2 trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Liên hoan nghệ thuật Festival Huế được tổ chức lần đầu vào tháng 4/2000 với sự tài trợ và tham gia tích cực của Pháp (là đối tác đầu tiên của Festival Huế) đã trở thành một hoạt động văn hóa quốc tế, được tổ chức 2 năm một lần. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng được mời tham gia vào nhiều lễ hội văn hóa nghệ thuật tại Pháp (Lễ hội nghệ thuật Avignon, Lễ hội Biển quốc tế Brest…)
Pháp đứng thứ 7 trong các nước, vùng lãnh thổ có đầu tư nhiều nhất vào lĩnh vực du lịch tại Việt Nam, với 14 dự án tổng trị giá 188 triệu USD. Việt Nam xác định Pháp là thị trường khách trọng điểm. Du lịch Việt Nam đã tham gia và tổ chức một số hoạt động xúc tiến tại Pháp như "Việt Nam – Hoài niệm", Hội báo nhân đạo, Hội chợ Top Resa, Hội chợ du lịch tại đảo Réunion (Pháp) và Salon Mondial tại Paris. Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đồng ý về chủ trương mở Văn phòng đại diện Cơ quan du lịch quốc gia tại Pháp.
Hai bên đã phối hợp tổ chức thành công Năm Việt Nam – Pháp (2013-2014) tại hai nước nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương.
3. Hợp tác khoa học công nghệ:
Hợp tác Việt-Pháp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ hiện được thực hiện thông qua các dự án do Quỹ Đoàn kết Ưu tiên (FSP) của Pháp tài trợ. Đây thường là các chương trình lớn, dài hạn về nghiên cứu, phát triển công nghệ, đào tạo phục vụ phát triển kinh tế xã hội; phát huy giá trị văn hóa; tăng cường năng lực về pháp luật và hành chính... Tháng 3/2007, Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ giữa hai Chính phủ đã được ký kết nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các chuyên gia, cơ quan và tổ chức khoa học và công nghệ hai nước tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác.
Hợp tác trong lĩnh vực ứng dụng hạt nhân ngày càng được tăng cường trong khuôn khổ Thỏa thuận giữa Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam và Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử Pháp (CEA) như hợp tác đào tạo cán bộ về công nghệ hạt nhân và khai thác sử dụng chương trình tính toán của CEA, cung cấp tài liệu tuyên truyền về điện hạt nhân cho công chúng. Tháng 11/2009, hai bên đã ký Hiệp định hợp tác về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình, tạo khuôn khổ pháp lý cần thiết và những điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức khoa học và công nghệ, các cơ sở giáo dục và đào tạo, các doanh nghiệp hai nước liên quan đến năng lượng hạt nhân tiến hành các hoạt động hợp tác và đầu tư.
V. CÁC LĨNH VỰC KHÁC:
1. Hợp tác an ninh - quốc phòng:
Pháp là nước phương Tây đầu tiên có tùy viên quốc phòng tại Việt Nam (1991). Quan hệ hợp tác này ngày càng phát triển: trao đổi đoàn thường xuyên (Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam thăm Pháp 12/2009; Bộ trưởng Quốc phòng Pháp thăm Việt Nam 7/2010), tổ chức họp tham mưu hàng năm, đối thoại an ninh, hỗ trợ xuất khẩu trang thiết bị khí tài, đào tạo sĩ quan, chiến hạm của Hải quân Pháp cập cảng Việt Nam. Trong chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng hai nước gần đây, hai bên nhất trí Việt Nam và Pháp là quan hệ đối tác chiến lược trong lĩnh vực quốc phòng.
Hai nước đã ký Hiệp định hợp tác Thỏa thuận khung giữa hai nước được ký vào năm 1997. Tháng 11/2009, hai bên đã ký Thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc phòng thống nhất tổ chức luân phiên hàng năm Ủy ban hỗn hợp về hợp tác quốc phòng để trao đổi về các vấn đề chiến lược và kế hoạch trang bị cho quân đội Việt Nam. Phiên họp đầu tiên của Ủy ban hỗn hợp về hợp tác quốc phòng (cấp Thứ trưởng) được tổ chức tháng 3/2010 tại Hà Nội.
2. Hợp tác địa phương (hợp tác phi tập trung):
Khởi xướng từ đầu những năm 1990, hợp tác phi tập trung Việt – Pháp trở thành nét đặc thù trong quan hệ Việt – Pháp. Việt Nam chiếm một vị trí đặc biệt trong chính sách hợp tác quốc tế của các địa phương Pháp. Hiện có 38 địa phương của Pháp có quan hệ đối tác với 18 tỉnh/thành Việt Nam. Từ năm 1990, có 235 dự án hợp tác phi tập trung giữa địa phương hai nước tại các trung tâm lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Thừa Thiên Huế… Các dự án hợp tác tập trung trong lĩnh vực y tế, giáo dục, nước và vệ sinh, bảo tồn di sản, cộng đồng pháp ngữ, phát triển nông thôn, phát triển bền vững, với quy mô không lớn nhưng nhìn chung có tác dụng tốt.
Từ năm 1996, hai nước tổ chức gặp gỡ và thảo luận về tình hình hợp tác giữa các tại phương nhằm đánh giá hoạt động hợp tác và trao đổi kinh nghiệm hợp tác giữa địa phương hai nước. Tính đến nay (2015), hai nước đã phối hợp tổ chức thành công 9 kỳ họp luân phiên tại Pháp và Việt Nam: Hội nghị lần 9 đã được tổ chức vào 10-12/6/2013 tại thành phố Brest với chủ đề “Hướng tới một mô hình mới về phát triển: vai trò và cơ hội của các địa phương Việt Nam và Pháp, cũng như các đối tác khác tại địa phương”; Hội nghị lần 10 được thống nhất sẽ diễn ra tại Thành phố Cần Thơ vào tháng 6/2016.
3. Hợp tác nhiều bên:
Giữa Việt Nam, Pháp với/hoặc một tổ chức tài trợ và một số nước châu Phi như Mali, Burkina Faso, Senegal trong cách lĩnh vực nông nghiệp, y tế… đã thu được những kết quả tốt và được các nước thụ hưởng hoan nghênh và đề nghị nhân rộng.
4. Hợp tác y tế:
Hiện có 30 dự án hợp tác đào tạo y học và cận y học như đào tạo bác sỹ nội trú tại các bệnh viện Pháp. Các dự án hợp tác này được tài trợ từ các Quỹ đối tác bệnh viện của Bộ Ngoại giao Pháp, Chương trình liên đới mạng điều trị (ESTHER) và quỹ riêng của các bệnh viện Pháp. Hợp tác y tế Việt-Pháp ưu tiên đào tạo ngành y, củng cố đào tạo nhân viên chăm sóc, củng cố khả năng quản lý bệnh viện. Hai bên đang nghiên cứu hiện đại hóa trường Đại học Y Hà Nội thành viện trường theo mô hình CHU (Centre hospitalier universitaire) của Pháp.
5. Pháp ngữ:
Đều là thành viên của Tổ chức Quốc tế Pháp ngữ, hai nước có nhiều hoạt động hợp tác trong khuôn khổ tổ chức Pháp ngữ, đặc biệt trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Pháp, giảng dạy đại học, các hoạt động nghị viện…
VI. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TẠI PHÁP:
1. Tình hình chung:
Cộng đồng người Việt Nam tại Pháp được hình thành từ những năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất 1914 – 1918, đến Pháp trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau, tổng số hiện nay khoảng trên 300.000 người, phần lớn đã vào quốc tịch Pháp, gồm nhiều thành phần nhưng chủ yếu là người lao động, viên chức, buôn bán nhỏ và học sinh sinh viên. Cộng đồng ngày càng tăng thêm về số lượng và đa dạng hơn về thành phần do ngày càng có nhiều học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh sang học tập (khoảng 7.000 người), một số không nhỏ từ các nước Đông Âu sang.
2. Các hội đoàn người Việt:
Hội đoàn lớn nhất của người Việt ở Pháp là Hội người Việt Nam tại Pháp. Đây là hội đoàn có bề dày truyền thống, đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc trước đây và xây dựng đất nước ngày nay. Hiện Hội có 3 chi hội (Lyon, Marseille, Bordeaux) và 2 hội cơ sở (Công nhân, Thương gia).
Hội Phật tử Việt Nam tại Pháp cũng là một hội đoàn lớn với nơi sinh hoạt tâm linh là chùa Trúc Lâm Paris và Trúc Lâm Marseille. Trong cộng đồng Phật tử còn có Làng Mai mà người đứng đầu là thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đây là một cơ sở rất lớn ngoài các cơ sở khác của Làng ở Mỹ, Úc với số lượng hàng chục ngàn người theo học mỗi năm, chưa kể số tu sĩ xuất gia.
Ngoài ra, những năm gần đây các tổ chức phi chính trị của Việt kiều hoặc do Việt kiều sáng lập bước đầu có bước phát triển với hình thức chủ yếu là quyên góp ủng hộ đồng bào gặp khó khăn trong nước.
3. Lực lượng trí thức:
Tri thức là thế mạnh của cộng đồng người Việt tại Pháp. Hiện có khoảng 40.000 Việt kiều có trình độ đại học hoặc trên đại học thuộc nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, chiếm 12% trong cộng đồng người Việt Nam tại Pháp. Phần lớn trí thức Việt kiều là những người đã sang Pháp thời gian trước và sau năm 1954 và con cái họ sinh trưởng tại Pháp. Một số có trình độ chuyên môn cao, là chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm làm việc tại các trường đại học, Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), các viện nghiên cứu, các cơ quan hành chính, kỹ thuật.
VII. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI PHÁP TẠI VIỆT NAM:
Số người Pháp đăng ký cư trú tại Việt Nam ngày càng tăng, tính đến năm 2013 đạt 6.304 người, tăng gần gấp 2,5 lần so với 2.558 người năm 2002. Những người Pháp có mặt tại Việt Nam thường tập trung chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh và làm việc tại các doanh nghiệp Pháp tại Việt Nam, các cơ sở giảng dạy, đào tạo.
VIII. CÁC HIỆP ĐỊNH ĐÃ KÝ GIỮA HAI NƯỚC:
- Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật (1989),
- Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1992),
- Hiệp định hợp tác y tế và y học (1992),
- Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần (1993),
- Hiệp định về hợp tác pháp luật và tư pháp (1993),
- Hiệp định hợp tác về du lịch (1996),
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự (1999),
- Hiệp định hợp tác hàng hải (2000),
- Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi (2000),
- Hiệp định về miễn thị thực lưu trú ngắn hạn đối với người mang hộ chiếu ngoại giao (2004),
- Hiệp định hợp tác khoa học công nghệ (2007).
- Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội (2009),
- Hiệp định về hợp tác sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình (2009),
- Hiệp định về các Trung tâm Văn hóa (2009),
- Hiệp định về việc thành lập và phát triển Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (2009).
- Tuyên bố chung về quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam – Pháp (2013)./.




