1. Quá trình thành lập và cơ cấu tổ chức hoạt động của UNDP:
a. Quá trình thành lập: UNDP được thành lập năm 1965 tại Nữu-ước (Hoa Kỳ) trên cơ sở hợp nhất hai cơ quan của Liên hợp quốc (LHQ) là Chương trình hỗ trợ Kỹ thuật mở rộng (EPTA) và Quỹ đặc biệt của LHQ.
Sự ra đời của UNDP năm 1965 phản ảnh trực tiếp những biến chuyển của cục diện quốc tế đầu những năm 1960, với việc các nước đang phát triển, mới giành được độc lập, tăng cường đấu tranh trên các diễn đàn đa phương, đặc biệt tại LHQ, để bảo vệ quyền lợi thiết thân của mình. Với sự vận động tích cực của Phong trào Không liên kết, Nhóm 77, UNCTAD và nhiều ủy ban kinh tế khu vực, các vấn đề phát triển ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong chương trình nghị sự của LHQ. Với tôn chỉ, mục đích khá toàn diện, gắn kết với nhiều vấn đề phát triển cấp thiết, UNDP đã nhanh chóng trở thành đầu tàu của LHQ để giúp thúc đẩy hợp tác phát triển. Việc trưởng đại diện UNDP kiêm nhiệm vị trí điều phối viên thường trú hệ thống LHQ ở nước sở tại đã góp phần tăng cường sự thống nhất, phối hợp trong hoạt động của LHQ, gắn bó nhiều hơn với nhu cầu của nước sở tại, điều mà trước đó LHQ chưa thực hiện được.
b. Cơ cấu tổ chức và hoạt động:
UNDP là cơ quan trực thuộc Đại hội đồng LHQ, chịu sự chi phối của Đại hội đồng và Hội đồng Kinh tế Xã hội (ECOSOC). Đại hội đồng quyết định các vấn đề chính sách lớn, ECOSOC xác định các nguyên tắc, quy chế hoạt động.
Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng Chấp hành (Executive Board) gồm 36 nước thành viên phân bổ theo khu vực địa lý (châu Phi-8; Châu Á-7; Trung Âu-4; Mỹ Latinh và Caribê-5; Tây Âu và các nước khác-12) có nhiệm kỳ 3 năm. Hội đồng Chấp hành là cơ quan tối cao xem xét phê duyệt các chương trình viện trợ cho các nước, khu vực và kiến nghị chính sách, phương hướng hoạt động của mình lên ECOSOC.
Người đứng đầu UNDP là Tổng Giám đốc (Administrator) do Tổng Thư ký LHQ bổ nhiệm; Tổng Giám đốc UNDP hiện nay là ông Achim Steiner, quốc tịch Brasil.
Việt Nam là thành viên Hội đồng Chấp hành nhiệm kỳ 2000-2002, đồng thời là Phó Chủ tịch Hội đồng Chấp hành năm 2000 và 2001.
2. Tôn chỉ mục đích:
- Giúp đỡ nỗ lực của các quốc gia nhằm đạt được mục tiêu phát triển con người bền vững, bằng cách hỗ trợ xây dựng năng lực trong việc thiết kế và thực hiện các chương trình phát triển nhằm xoá bỏ đói nghèo, tạo công ăn việc làm và tìm phương cách mưu cầu sự sống bền vững, nâng cao địa vị của phụ nữ, bảo vệ và tái tạo môi trường, ưu tiên hàng đầu cho xoá đói giảm nghèo. Các nguồn lực của UNDP cần phải được sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả nhất để đem lại tác động tối đa tới sự phát triển kinh tế, xã hội của các nước nhận viện trợ.
- Khuyến khích nâng cao sự tự chủ của các nước đang phát triển đối với năng lực quản lý, kỹ thuật, hành chính và những nghiên cứu cần thiết để xây dựng và thực hiện các chính sách và kế hoạch phát triển của các nước.
- Hoạt động của UNDP tập trung tăng cường hợp tác quốc tế vì sự nghiệp phát triển; trợ giúp việc tăng cường khả năng quản lý quốc gia, sự tham gia rộng rãi hơn của nhân dân, phát triển khu vực nhà nước và tư nhân, sự tăng trưởng công bằng. Các chương trình và dự án hỗ trợ của UNDP được xây dựng dựa trên cơ sở các kế hoạch và ưu tiên quốc gia và các ưu tiên trong chính sách của UNDP.
3. Nguồn vốn và cơ cấu viện trợ:
UNDP là tổ chức viện trợ phát triển lớn nhất hệ thống LHQ hiện nay. Trung bình hàng năm UNDP quản lý khoảng 2,3 tỷ USD viện trợ thông qua các nguồn vốn thường xuyên (core resources), không thường xuyên (non-core resources) và các nguồn đồng tài trợ khác (co-financing or cost-sharing resources). 90% viện trợ từ nguồn vốn thường xuyên của UNDP được dành cho các nước nghèo, nơi chiếm 90% tỷ lệ nghèo đói của thế giới hiện nay.
Viện trợ của UNDP là viện trợ không hoàn lại, được thực hiện dưới dạng chương trình quốc gia có thời gian 5 năm bao gồm hầu hết các lĩnh vực và ngành kinh tế của các quốc gia. Các chương trình quốc gia được xây dựng dựa trên những ưu tiên của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và kế hoạch 5 năm của nước nhận viện trợ và các mục tiêu ưu tiên trong từng thời kỳ của UNDP. Ngân sách dự kiến viên trợ cho các chương trình của các nước nhận viện trợ do Hội đồng Chấp hành UNDP thông qua. Chương trình quốc gia là khuôn khổ hợp tác của UNDP với nước nhận viện trợ. Trên cơ sở chương trình quốc gia, UNDP phối hợp với chính phủ xây dựng các chương trình dự án cụ thể. Phương thức tiếp cận để thực hiện các chương trình quốc gia của UNDP từ trước năm 2000 là tiếp cận bằng các dự án cụ thể. Nhưng kể từ năm 2000, UNDP chuyển mạnh sang phương thức tiếp cận bằng các chương trình (cụm vấn đề).
UNDP có văn phòng đại diện ở khoảng 170 nước và vùng lãnh thổ; quản lý một số quỹ và chương trình trực thuộc có vai trò hỗ trợ phát triển quan trọng, đa dạng như Cơ quan LHQ về bình đẳng giới và trao quyền cho Phụ nữ (UN Women), Chương trình Tình nguyện viên LHQ (United Nations Volunteers, UNV), Văn phòng phòng chống Sa mạc hoá và Hạn hán (Office to Combat Desertification and Drought, UNSO), Quỹ Đầu tư Phát triển LHQ (United Nations Capital Development Fund, UNCDF), Quỹ LHQ về Khoa học và Công nghệ phục vụ Phát triển (United Nations Fund for Science and Technology for Development, UNFSDT) và Quỹ LHQ về Tái tạo Tài nguyên thiên nhiên (United Nations Revolving Fund for Natural Resources, UNRFNRE).
Kể từ đầu những năm 1980, Trưởng đại diện thường trú của UNDP đồng thời đảm nhiệm vai trò Điều phối viên thường trú (ĐPV) và chịu trách nhiệm điều phối hoạt động của các quỹ, chương trình, tổ chức chuyên môn LHQ ở nước sở tại. Điều phối viên thường trú cũng phụ trách toàn bộ các hoạt động cứu trợ thiên tại khẩn cấp tại đây. Do đó, UNDP có quan hệ chặt chẽ, rộng khắp với rất nhiều tổ chức phát triển LHQ cũng như các tổ chức quốc tế khác ở nước sở tại, và vì vậy có vị trí rất đặc biệt, quan trọng trong hệ thống phát triển. Tổng Giám đốc UNDP được coi là quan chức cao cấp LHQ đứng thứ 3 sau Tổng Thư ký và Phó Tổng Thư ký.
Tuy nhiên, vào tháng 5/2018, Liên hợp quốc (LHQ) đã thông qua Nghị quyết 72/279 về “Tái định vị hệ thống phát triển LHQ trong bối cảnh Rà soát tổng thể bốn năm một lần của hoạt động hợp tác phát triển của hệ thống LHQ” trong đó có cải tổ hệ thống ĐPV tại nước sở tại. ĐPV sẽ tách ra khỏi vai trò Đại diện thường trú của UNDP. Theo tinh thần Nghị quyết, từ ngày 1/1/2019 hệ thống ĐPV mới sẽ đi vào hoạt động, và Tổng giám đốc UNDP đã có công hàm gửi các nước về việc bổ nhiệm Đại diện thường trú của UNDP mới.
4. Các lĩnh vực hoạt động chính:
Là một tổ chức phát triển của LHQ, UNDP có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nước, đặc biệt là đang phát triển, trong việc thực hiện các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) trước đây và các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) hiện nay, thông qua tăng cường năng lực quốc gia, tập trung vào 6 lĩnh vực ưu tiên chính là: quản trị dân chủ, xoá đói giảm nghèo, phòng ngừa và khắc phục thiên tai, môi trường và năng lượng, phòng chống HIV/AIDS và tăng cường trao quyền cho phụ nữ.
Trong lĩnh vực quản trị dân chủ, UNDP giúp thúc đẩy cải cách tư pháp (đào tạo thẩm phán, nhân viên cơ quan thực thi pháp luật và nhà báo); tăng cường các hệ thống trợ giúp pháp lý; tài trợ cho các chương trình giáo dục pháp luật; bảo vệ quyền con người; chống tham nhũng; hỗ trợ bầu cử; chính phủ điện tử và tiếp cận thông tin.
Trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, UNDP giúp đánh giá tình trạng nghèo đói trên thế giới thông qua các Báo cáo Phát triển Con người (HDR, xuất bản từ năm 1990), tổ chức các diễn đàn thảo luận liên quan, và hỗ trợ soạn thảo và thực hiện các chiến lược xoá đói giảm nghèo ở cấp độ quốc gia.
Trong lĩnh vực phòng chống và khắc phục thiên tai, UNDP đã nhanh chóng hỗ trợ khẩn cấp trong các lĩnh vực như tái ổn định cuộc sống cho người tị nạn, khôi phục lại nền kinh tế bị tàn phá; thúc đẩy giải giáp vũ khí và giải trừ quân bị, rà phá bom mìn.
Trong lĩnh vực năng lượng và môi trường, UNDP giúp thúc đẩy hợp tác quốc tế, tư vấn chính sách và lồng ghép vấn đề năng lượng và môi trường vào các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), UNDP đã hỗ trợ 100 quốc gia đối phó với hiện tượng “hiệu ứng nhà kính” bằng cách cắt giảm lượng khí thải. Thông qua Văn phòng LHQ về phòng chống hoang mạc hoá và hạn hán, UNDP giúp nhiều quốc gia đối phó với nạn hạn hán, hoang mạc hoá và nạn đói.
Trong lĩnh vực phòng chống HIV/AIDS, với tư cách là một cơ quan đồng tài trợ của UNAIDS, UNDP đã giúp nhiều quốc gia lồng ghép vấn đề này vào các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, như ở Buốc-ki-na Fa-sô, Ca-mơ-run, Ấn Độ, Braxin…
Năm 2017, UNDP đã công bố Kế hoạch chiến lược 2018-2021, trong đó các hoạt động của UNDP sẽ tập trung vào 3 mục tiêu chính: (1) Thúc đẩy xóa đói giảm nghèo tại mọi phương diện và hình thức; (2) Đẩy mạnh thay đổi cơ cấu cho phát triển bền vững; và (3) Tăng cường khả năng chống chịu đối với shocks và khủng hoảng. Để đạt được 3 mục tiêu này, UNDP sẽ có 6 hướng “solutions” sau: (i) Giữ người dân khỏi rơi vào nạn đói nghèo; (ii) tăng cường quản trị hiệu quả, có trách nhiệm và bao trùm; (iii) Thúc đẩy khả năng ngăn ngừa và hồi phục cho các cộng đồng có khả năng chống chịu; (iv) Thúc đẩy các cách giải quyết dựa trên thiên nhiên (nature-based solutions) vì một hành tinh bền vững; (v) Giảm khoảng cách năng lượng sạch (clean energy gap); và (vi) Tăng cường bình đẳng giới. (phụ lục kèm theo)
5. Quan điểm của một số quốc gia về UNDP:
Một số quốc gia hoan nghênh UNDP trong việc hỗ trợ chính sách và xây dựng năng lực quốc gia cho việc phát triển và đạt được các Mục tiêu Phát triển bền vững, phù hợp với việc chịu trách nhiệm của quốc gia. Các quốc gia này cũng nhấn mạnh UNDP nằm trong trung tâm hệ thống phát triển LHQ và sẽ tiếp tục như vậy. Một số quốc gia khác nhấn mạnh hợp tác Nam-Nam đã tạo ra một môi trường kiến tạo và phát triển các quan hệ hợp tác đa bên nhằm thúc đẩy việc đạt được các SDGs.
Một số quốc gia kém phát triển nhất cho rằng UNDP nên tập trung định hướng xây dựng chương trình và đào tạo kỹ năng tại các quốc gia này sao cho chúng phù hợp với các lĩnh vực ưu tiên trong Chương trình hành động Istanbul và đồng thời hỗ trợ hợp tác Nam-Nam, đặc biệt đối với xóa đói giảm nghèo và thay đổi cấu trúc các nền kinh tế.
Một số quốc đảo đang phát triển yêu cầu UNDP tiếp tục hỗ trợ SIDS Accelerated Modalities of Action (SAMOA) Pathway nhằm ứng phó với thách thức của các quốc gia và việc các quốc gia này rất dễ bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu.
II. Quan hệ Việt Nam và UNDP thời gian qua:
Việt Nam ký Hiệp định hợp tác với UNDP ngày 21 tháng 3 năm 1978. Thông qua 7 Chương trình quốc gia từ năm 1977 đến 2010, UNDP đã hỗ trợ cho Việt Nam khoảng 560 triệu USD trong các lĩnh vực ưu tiên như: hỗ trợ xoá đói giảm nghèo và phát triển xã hội; hỗ trợ công cuộc cải cách và quản lý phát triển, đặc biệt là các lĩnh vực cải cách hành chính công, cải cách luật pháp và cải cách kinh tế; hỗ trợ quản lý môi trường và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên; hỗ trợ công tác điều phối và quản lý viện trợ, tuyên truyền và hỗ trợ công tác vận động tài trợ.
Trong Chương trình hợp tác quốc gia 7 (2006-2010), UNDP tài trợ cho Việt Nam khoảng 78 triệu USD, trong đó 30 triệu USD là nguồn vốn thường xuyên, tiếp tục tập trung vào 3 lĩnh vực chương trình lớn là giảm nghèo, phát triển bền vững có tính đến môi trường và giảm nhẹ thiên tai; thúc đẩy quản trị dân chủ; kiểm soát ma tuý, vấn đề giới và thanh niên.
Giai đoạn 2012-2016, trong khuôn khổ sáng kiến Một Liên hợp quốc được khởi động từ năm 2006 và Kế hoạch chung hợp tác giữa Việt Nam và Liên hợp quốc, 3 tổ chức UNDP, UNICEF, UNFPA cùng Chính phủ Việt Nam đã thống nhất xây dựng Chương trình Quốc gia chung (CCPD) cho giai đoạn 2012-2016 trên cơ sở các ưu tiên của Chính phủ và lợi thế so sánh của các tổ chức LHQ nhằm hỗ trợ thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam giai đoạn 2011-2015. Tổng ngân sách chung cho 3 tổ chức UNDP, UNICEF và UNFPA là 253,51 triệu USD, trong đó 84,715 triệu USD từ nguồn vốn thường xuyên và 168,795 triệu từ nguồn vận động. Ngân sách của Chương trình do UNDP thực hiện là 140,36 triệu USD, trong đó 44,165 triệu USD từ nguồn vốn thường xuyên và 96,195 triệu từ nguồn vận động.
Trong Chương trình này, UNDP tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trên các lĩnh vực ưu tiên như giảm nghèo, thực hiện MDG, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững; an sinh xã hội và bình đẳng giới; quản trị dân chủ.
Giai đoạn 2017-2021: trong khuôn khổ Sáng kiến Một LHQ, Kế hoạch Chiến lược chung (KHCLC) giữa Việt Nam và các cơ quan Liên hợp quốc, trong đó có UNDP, giai đoạn 2017-2021 đã cơ bản được xây dựng xong và sẽ được Chính phủ Việt Nam chính thức thông qua trong thời gian sắp tới. KHCLC có mục tiêu hỗ trợ Chính phủ Việt Nam thực hiện Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội giai đoạn 2016-2020 và các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs), bao gồm bốn lĩnh vực ưu tiên: Đầu tư vào Con người; Đảm bảo thích ứng với Biến đổi Khí hậu và phát triển môi trường bền vững; Thúc đẩy sự Thịnh vượng và Quan hệ Đối tác; Tăng cường Công lý, Hòa Bình và Quản trị toàn diện. Tổng ngân sách của KHCLC giai đoạn 2017-2021 dự kiến là 423.348.650 USD, trong đó ngân sách do UNDP thực hiện là 133.301.000 USD.
UNDP là một trong những tổ chức LHQ đi đầu trong việc thực hiện “Sáng kiến Một Liên hợp quốc” tại Việt Nam, gồm 5 cấu phần chính là xây dựng Một kế hoạch chung, Một Ngân sách chung, Một hệ thống quy chế quản lý thống nhất, Một Lãnh đạo chung và Một Ngôi nhà chung, nhằm góp phần phát huy vai trò làm chủ của Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển, tăng cường phối hợp, tinh giản và hài hòa hóa thủ tục của các tổ chức LHQ.
Với việc Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, UNDP thay đổi mô hình làm việc và sẽ tập trung vào các thế mạnh có sẵn. UNDP sẽ tập trung cung cấp gợi ý về chính sách, bằng chứng và nghiên cứu-dựa trên các kinh nghiệm quốc tế, và tăng cường cung cấp các dịch vụ được yêu cầu cao nhằm thúc đẩy tính hiệu quả trong phát triển, đẩy nhanh các chương trình quốc gia được đầu tư (hoặc đồng đầu tư) bởi Chính phủ, và hợp tác tại các cấp bậc địa phương nhằm đối phó với các thách thức phát triển tại các địa phương. Các nguồn tài trợ phát triển chính thức đang bị giảm mạnh vì vậy UNDP sẽ tăng cường phát triển quan hệ hợp tác với Chính phủ, khu vực tư và các thể chế tài chính quốc tế. UNDP sẽ phát triển và luôn điều chỉnh các chiến lược quản lý rủi ro của từng chương trình dựa trên phân tích bối cảnh chính sách nhằm tránh bị mất vị trí trung gian/công bằng khi phải xử lý các vấn đề nhạy cảm.
Dựa trên Kế hoạch quốc gia Phát triển Kinh tế xã hội 2016-2021 và KHCLC giai đoạn 2017-2021, Hội đồng chấp hành UNDP đã có tài liệu chương trình quốc gia Việt Nam giai đoạn 2017-2021. UNDP và Việt Nam sẽ tập trung vào “địa phương hóa” các Mục tiêu phát triển bền vững. UNDP sẽ tập trung hỗ trợ các nhóm dân cư nghèo đa chiều, các nhóm dễ bị ảnh hưởng bởi rủi ro thiên tai, các nhóm cận nghèo và các hộ gia đình thu nhập trung bình nhưng dễ bị nghèo trở lại.
Chương trình quốc gia của UNDP sẽ tập trung hỗ trợ Việt Nam hoàn thành các mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ còn lại và hỗ trợ Việt Nam thực hiện Chương trình nghị sự 2030; xây dựng năng lực thể chế của Việt Nam. Hiện nay, UNDP đặt ra 3 mục tiêu cho công tác tại Việt Nam như sau: (1) xóa đói giảm nghèo và giảm bất bình đẳng; (2) thúc đẩy sự tham gia của người dân và bảo vệ quyền của người dân; và (3) tăng cường phát triển ít khí thải bền vững (sustainable low-carbon development)./.
(Tháng 08/2020)

