I. Tổ chức ILO
1. Giới thiệu chung
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) được thành lập năm 1919. Lúc mới thành lập, ILO là tổ chức tự trị liên kết với Hội Quốc Liên. Năm 1946, ILO ký Hiệp định quy định mối quan hệ với Liên hợp quốc (LHQ) và trở thành tổ chức chuyên môn đầu tiên của LHQ. ILO đóng Trụ sở tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. Tổng Giám đốc ILO hiện nay là ông Guy Ryder, quốc tịch Anh, đi lên từ giới thợ.
2. Thành viên của ILO
Khi thành lập năm 1919, ILO chỉ có 45 nước tham gia. Đến nay, ILO đã có 187 quốc gia thành viên.
3. Mục tiêu hoạt động
ILO được thành lập nhằm mục tiêu thúc đẩy công bằng xã hội và bảo vệ các quyền lao động và quyền con người. ILO xây dựng các tiêu chuẩn lao động quốc tế thông qua hình thức các Công ước và Nghị quyết trong đó quy định các tiêu chuẩn tối thiểu về quyền của người lao động (ví dụ quyền tự do lập hội, quyền được tổ chức và thương lượng tập thể, quyền xoá bỏ lao động cưỡng bức, không bị phân biệt đối xử tại nơi làm việc và trong việc làm vv…). Đến nay, ILO đã thông qua tổng cộng 189 Công ước và 205 Khuyến nghị. Trong số các Công ước trên, có 8 Công ước được coi là Công ước cơ bản tập trung vào 4 lĩnh vực: Tự do lập hội và tổ chức; Chống lao động cưỡng bức; Xóa bỏ lao động trẻ em; Chống phân biệt đối xử. Các Công ước và Khuyến nghị của ILO được coi là cơ sở của Bộ luật lao động quốc tế.
4. Hình thức hỗ trợ của ILO
Các quốc gia thành viên được ILO hỗ trợ dưới hình thức các chương trình, dự án do ILO điều hành. Các hoạt động trợ giúp khác là: tư vấn; nghiên cứu kỹ thuật; tăng cường năng lực, thể chế; đào tạo, thăm quan khảo sát, hội nghị/hội thảo về các chuyên đề liên quan đến quan tới chiến lược và chính sách lao động, việc làm. Mọi hoạt động trợ giúp của ILO đều phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong Điều lệ ILO, đó là tôn trọng quyền cơ bản tại nơi làm việc; tạo thêm nhiều cơ hội cho phụ nữ cũng như nam giới có được việc làm đàng hoàng với thu nhập phù hợp và được bảo vệ về nhân phẩm.
5. Kế hoạch chiến lược giai đoạn 2018-2021
- Củng cố năng lực của ILO để cung cấp các dịch vụ chất lượng cho các thành viên ILO và các quốc gia thành viên nhận thức về công bằng xã hội thông qua Chương trình Nghị sự Việc làm bền vững và kết hợp hệ thống để hiểu rõ hơn và đáp ứng các nhu cầu của các thành viên.
- Tăng cường đáng kể năng lực giải quyết các nhu cầu của những thành phần dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất trong thế giới việc làm, bao gồm cả những người nghèo và những người bị ảnh hưởng bởi xung đột và bị vi phạm nghiêm trọng các quyền và tự do cơ bản.
Quan điểm Nhóm Châu Á - Thái Bình dương (ASPAG) ủng hộ Kế hoạch chiến lược, trong việc thực hiện cần cân nhắc cẩn thận Kế hoạch và tiếp tục thực hiện Nghị quyết 2016 về Nâng cao Công bằng xã hội thông qua việc làm bền vững. ASPAG coi trọng việc đầu tư vào thống kê và quản lý tri thức, bao gồm xây dựng năng lực cho các thành viên. ASPAG kêu gọi Kế hoạch tiếp tục tập trung vào việc làm cho thanh niên tại các nước đang phát triển, đồng thời giảm thiểu biến đổi khí hậu; Quan điểm Nhóm Châu Phi cảnh báo việc thất nghiệp cao đặc biệt trong giới trẻ là mối đe dọa cho Chương trình nghị sự về việc làm bền vững. Các chính sách xã hội và lao động trong thời gian tới cần giải quyết nguyên nhân gốc rễ và tình trạng lao động di cư, lao động trẻ em và loại trừ phụ nữ trong một số công việc. Đề nghị ILO cần tăng cường phát triển và thực hiện chương trình quốc gia về việc làm bền vững ở cấp quốc gia; Nhóm Châu Âu (IMEC) cho rằng tầm nhìn cần lồng ghép rõ hơn với Chương trình nghị sự 2030 thông qua các chính sách, chương trình, cần có đánh giá về hiệu quả Kế hoạch vào giai đoạn cuối. Liên quan tới ngân sách và chương trình, ILO cần cân bằng giữa tính liên tục và thích ứng, đưa ra các ưu tiên về tiêu chuẩn và Sáng kiến Việc làm trong tương lai. ILO cần tăng cường năng lực để đảm bảo việc làm bền vững cho đa số lao động trên thế giới, bao gồm cả khu vực không chính thức và các nghề không có tiêu chuẩn; Brazil cho rằng tần nhìn chiến lược ILO 2021 cần phản ánh tầm quan trọng của việc đáp ứng các nhu cầu của các thành viên, đặc biệt trong việc tạo ra các việc làm chính thức. ILO cần có các dụng cụ tri thức phù hợp, cùng các tổ chức khác, giám sát nền kinh tế toàn cầu. Cần nâng cao tiêu chuẩn và hệ thống giám sát cũng như hỗ trợ kỹ thuật nhằm bảo vệ các thành phần dễ bị tổn thương. Hợp tác Nam - Nam và ba bên cần được nêu trong Kế hoạch.
6. Vấn đề tranh cãi tại ILO
ILO vừa công bố báo cáo về việc làm trong tương lai (Future of work) có rất nhiều hoài nghi đặc biệt từ phía chủ sử dụng lao động. Báo cáo đưa ra 10 khuyến nghị được nhóm thành 3 chủ đề tập trung vào: (i) tăng đầu tư vào năng lực của con người; (ii) các thể chế liên quan tới việc làm; (iii) việc làm tốt và bền vững. Tại chủ đề 02 về thể chế liên quan tới việc làm có đưa ra khuyến nghị về bảo đảm lao động phổ thông bao gồm các quyền cơ bản của người lao động, mức lương đủ sống, giới hạn thời gian làm việc và bảo đảm nơi làm việc an toàn và lành mạnh, điều này nhiều khả năng sẽ dẫn đến việc xem xét và thay đổi phạm vi của luật lao động. Mở rộng việc tự chủ về thời gian của lao động bằng cách tạo ra sự chủ động về thời gian làm việc mà đáp ứng được nhu cầu của cả người lao động và doanh nghiệp. Điều này có khả năng sẽ bao gồm điều chỉnh thời gian làm việc ngoài việc quan hệ việc làm truyền thống. Phía chủ sử dụng lao động cho rằng các đề xuất này không khả thi và thiếu sự rõ ràng về các phương tiện tài chính. Một trong những khuyến nghị nữa là việc sử dụng công nghệ cho việc làm bền vững dựa trên cách tiếp cận con người điều khiển công nghệ. Điều này ngụ ý việc chống lại tự động hoàn toàn
II. Quan hệ hợp tác Việt Nam – ILO
1. Sơ lược các mốc quan trọng trong quá trình hợp tác
Việt Nam gia nhập ILO từ năm 1980. Năm 1982 Việt Nam rút khỏi ILO vì lý do kỹ thuật, tài chính. Năm 1992, Việt Nam gia nhập lại ILO. Năm 2002, Việt Nam và ILO ký Hiệp định thiết lập Văn phòng ILO tại Hà Nội.
2. Mục tiêu hoạt động của ILO tại Việt Nam
Mọi hoạt động của ILO tại Việt Nam luôn gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Chính phủ và phù hợp với bốn mục tiêu chiến lược về chương trình việc làm của ILO. Các hỗ trợ của ILO tập trung giúp Chính phủ hoạch định chiến lược và chính sách về lao động, việc làm nhằm giúp cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao động. Trong thời gian tới ILO sẽ tập trung hỗ trợ cho công tác ngăn chặn và xoá bỏ tình trạng lao động trẻ em, tăng cường bình đẳng nam nữ, phát triển các doanh nghiệp, bảo trợ xã hội, an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp, thúc đẩy các mối quan hệ lao động và đối thoại xã hội.
3. Các lĩnh vực và hình thức hợp tác chủ yếu
ILO giúp Việt Nam chủ yếu thông qua các chương trình, dự án và các hoạt động tăng cường thể chế nhằm nâng cao năng lực trong lĩnh vực quản lý lao động và việc làm.
- Từ năm 1999 đến hết
2005, hỗ trợ của ILO cho Việt Nam khoảng
2,5 triệu USD, không kể chi phí hành chính và chi cho hợp tác kỹ thuật từ ngân
sách thường xuyên của ILO.
- Giai đoạn 2006 - 2010, ILO hỗ trợ và phối hợp thực hiện với các đối tác Việt Nam với kinh phí khoảng 30 triệu USD (kể cả vốn vận động).
- Giai đoạn 2012-2016 ILO đã hỗ trợ khoảng 30 triệu USD.
- Giai đoạn 2017-2021 ILO dự kiến hỗ trợ 34,6 triệu USD.
4. Các đối tác chính của ILO tại Việt Nam
Các đối tác chính của ILO tại Việt Nam là Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
5. ILO và Sáng kiến Một Liên hợp quốc tại Việt Nam (ONE UN Inititative)
Trước 9/2007, ILO là quan sát viên Nhóm Công tác liên ngành (bao gồm đại diện các cơ quan quản lý viện trợ của Chính phủ, đại diện các nhà tài trợ, đại diện các tổ chức của Liên hợp quốc – TNTF) về Sáng kiến Một Liên hợp quốc tại Việt Nam.
Từ 9/2007 tới nay, ILO là thành viên TNTF, tích cực phối hợp cùng các đối tác xã hội của Việt Nam, các tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam và các cơ quan quản lý viện trợ xây dựng dự thảo Kế hoạch chung giai đoạn 2 từ 2012-2016 và Kế hoạch Chiến lược chung giai đoạn 2017-2021 và tham gia các Trụ cột khác của Sáng kiến Một Liên hợp quốc tại Việt Nam.
Mọi hoạt động của ILO tại Việt Nam đã tăng lên đáng kể đặc biệt từ giữa những năm 1990 trở lại đây. Năm 2002, ta đã ký với ILO Thỏa thuận thiết lập Văn phòng tại Hà Nội. ILO đã hỗ trợ kỹ thuật Việt Nam rất hiệu quả và đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng pháp luật, chính sách về lao động và xã hội, trong đó có Bộ luật Lao động, luật Bảo hiểm xã hội, luật Dạy Nghề, luật Bình đẳng giới; trao đổi kinh nghiệm và nghiên cứu các luận cứ xây dựng các chính sách về thị trường lao động, an sinh xã hội.
Trong khuôn khổ chương trình chung Một Liên hợp quốc và các chương trình toàn cầu khác, ILO đang phối hợp với Bộ LĐTBXH, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức đối tác khác tại Việt Nam thực hiện nhiều dự án trong lĩnh vực lao động, xã hội, bao gồm: Dự án về Thị trường Lao động; Chương trình chung của LHQ về Bình đẳng giới và Nâng cao vị thế của Phụ nữ; Dự án Hỗ trợ Sửa đổi Bộ luật Lao động và luật Công đoàn và Phát triển Quan hệ Lao động; Dự án Việc làm tốt hơn; Dự án thúc đẩy việc làm bền vững cho người khuyết tật; Dự án Cải thiện An toàn vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp nhỏ; Chương trình chung của LHQ về Chính sách Xã hội v.v..
6. Quan hệ Việt Nam - ILO trong giai đoạn vừa qua
Việt Nam đã tham gia 21 Công ước của ILO, trong đó có 5/8 Công ước cơ bản, 3/4 Công ước ưu tiên và 13/177 Công ước kỹ thuật. 3 Công ước cơ bản ta chưa tham gia là Công ước 87 về Quyền tự do lập hội, Công ước 98 về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể, Công ước 105 về Bãi bỏ lao động cưỡng bức.
Đầu năm 2014, Việt Nam (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội chủ trì liên ngành) đã ký Biên bản ghi nhớ về việc tiếp tục thực hiện Chương trình Việc làm tốt (Decent Job) tại Việt Nam cho giai đoạn 2014-2019.
Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò thành viên chính thức, đại diện cho khối ASEAN trong Hội đồng Quản trị ILO nhiệm kỳ 2011-2014. Hàng năm ta đều cử đoàn cấp cao dự Đại hội đồng và Hội đồng Quản trị ILO với đủ ba thành phần là Chính phủ, Phòng Thương Mại và công nghiệp Việt Nam (giới chủ), Liên minh HTX Việt Nam và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (giới thợ).
Đặc biệt, từ 26-27/1/2010, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng nhân chuyến thăm lãnh đạo và trụ sở các tổ chức thuộc LHQ tại Geneva đã được Tổng Giám đốc ILO đón tiếp rất trọng thị tại Trụ sở ILO; chuyến thăm thể hiện vai trò, vị thế đi lên và sự tham gia chủ động, tích cực của Việt Nam vào quản trị ở cấp toàn cầu, cũng như trong thúc đẩy quan hệ với tổ chức này.
7. Hợp tác Việt Nam - ILO trong thời gian tới
Việt Nam và ILO đã thông qua Chương trình quốc gia về việc làm bền vững 2017-2021, trong đó tập trung vào ưu tiên chính là (i) Thúc đẩy việc làm bền vững và một môi trường thuận lợi về các cơ hội kinh doanh bền vững; (ii) Giảm nghèo thông qua việc mở rộng diện bao phủ an sinh xã hội cho tất cả mọi người; (iii) Xây dựng thể chế quản trị thị trường lao động hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc. Chương trình này vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 10/8/2017.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2528/QĐ-TTg ngày 31/12/2016 phê duyệt kế hoạch thực hiện và đề xuất gia nhập các Công ước Liên hợp quốc và ILO, trong đó có các Công ước quan trọng như C87 (tự do hiệp hội), C98 (thương lượng tập thể). Theo đó, từ 2016 đến năm 2020, phải hoàn thành việc nghiên cứu xem xét khả năng gia nhập các Công ước này.
Trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục tăng cường các hoạt động hợp tác với ILO trên các lĩnh vực: xây dựng pháp luật và chính sách về lao động, xã hội; thị trường lao động; quan hệ lao động; dạy nghề; việc làm; tiền lương; an toàn vệ sinh lao động; hỗ trợ các nhóm yếu thế .v.v. ILO cũng hỗ trợ thực hiện Chiến lược ngành Lao động - Thương mại và Xã hội, Đề án Tổng thể về Phát triển Thị trường Lao động đến năm 2020, Đề án Phát triển hệ thống An sinh xã hội đến năm 2020, Chiến lược Việc làm, Chiến lược Dạy nghề...; nghiên cứu và tiến tới phê chuẩn các công ước cơ bản và các công ước khác của ILO, đặc biệt trong bối cảnh ta sẽ tham gia EVFTA. Quá trình xây dựng các luật đều có sự nghiên cứu các Công ước có liên quan của ILO để nội luật hóa phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Bên cạnh đó, cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội cũng là một nội dung quan trọng. Hiện tại, Việt Nam đang thảo luận Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội tập trung vào các mục tiêu chính là: (i) Mở rộng độ bao phủ bảo hiểm xã hội đến toàn bộ lực lượng lao động, (ii) Điều chỉnh chính sách bảo đảm tính công bằng giữa các nhóm đối tượng tham gia, (iii) Bảo đảm tính bền vững về tài chính quỹ BHXH, (iv) Nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ công về BHXH để phục vụ tốt hơn cho người lao động và doanh nghiệp và (v) sửa đổi Bộ Luật lao động 2012.
Tóm lại, về cơ bản, quan hệ hợp tác Việt Nam - ILO thời gian qua tiến triển đúng hướng, các hoạt động hỗ trợ đạt hiệu quả tốt. Viện trợ của ILO tăng cả về lượng và chất. Các hoạt động hợp tác đến nay đều đáp ứng yêu cầu về lao động, việc làm của cả Việt Nam và ILO. Chính phủ Việt Nam một mặt tạo mọi điều kiện cho ILO thông qua Văn phòng Đại diện tại Hà Nội, triển khai các hoạt động tại Việt Nam, mặt khác, luôn giữ vững các cam kết với ILO về tất cả các lĩnh vực liên quan, góp phần tích cực thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hai bên ngày hiệu quả hơn./.

