I. KHÁI QUÁT VỀ FAO
1. Thông tin chung về FAO:
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) là tổ chức chuyên môn của LHQ, được thành lập ngày 16/10/1945 tại Hội nghị ở thành phố Quebec (Canada), đến nay có 195 nước thành viên chính thức và 02 thành viên liên kết (Faroe Islands và Tokelau). Từ năm 1981 đến nay, ngày 16/10 hàng năm đã trở thành và Ngày Lương thực thế giới. Ngoài Trụ sở chính tại Rô-ma (Italia), FAO còn có nhiều Văn phòng khu vực và có Văn phòng đại diện tại 142 quốc gia thành viên trên các châu lục với chức năng phổ cập và tuyên truyền giúp đỡ các nước thành viên các thông tin khoa học kỹ thuật cập nhật về nông nghiệp và phát triển nông thôn, lâm nghiệp, thuỷ sản và các dịch vụ tư vấn kỹ thuật trong các lĩnh vực liên quan; đồng thời, giám sát việc thực hiện các dự án viện trợ khẩn cấp, các dự án phát triển trong khuôn khổ chương trình hợp tác và kỹ thuật (TCP) của FAO.
Tầm nhìn của FAO (thông qua năm 2013, tại Khung chiến lược (Strategic Framework) là: “Một thế giới không còn nạn đói và suy dinh dưỡng, trong đó lương thực và nông nghiệp đóng phần nâng cao chất lượng sống cho mọi người dân, đặc biệt là những người nghèo nhất thông qua các biện pháp kinh tế, xã hội và thân thiện với môi trường”.
Để thực hiện tầm nhìn đó, FAO đặt ra 3 mục tiêu toàn cầu (Global goals) gồm: (i) xóa đói, tình trạng mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng, (ii) xóa nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội cho mọi người dân, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, tạo sinh kế bền vững; quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và (iii) quản lý và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên. Theo đó, các trọng tâm công việc là: (i) Đóng góp vào xóa nghèo, xóa bỏ tình trạng mất an ninh lương thực và suy dinh dưỡng, (ii) thúc đẩy hàng hóa và dịch vụ nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản một cách bền vững, (iii) giảm nghèo ở nông thôn, (iv) xây dựng hệ thống lương thực và nông nghiệp bao trùm ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế, (v) tăng khả năng chống chịu của các sinh kế trước các mối đe dọa và khủng hoảng.
Trong hơn 70 năm qua, FAO đã có những đóng góp đáng kể cho sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn, bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường sinh thái… thông qua các chương trình hợp tác và Quỹ uỷ thác, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. FAO đang tích cực hỗ trợ các nước thành viên phấn đấu thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 của Liên hợp quốc (CTNS2030) vì sự Phát triển bền vững, tập trung vào Mục tiêu phát triển bền vững số 1 (SDG1) – Xóa nghèo dưới mọi hình thức và Mục tiêu phát triển bền vững số 2 (SDG2) – Xóa đói, đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao dinh dưỡng và phát triển nông nghiệp bền vững.
2. Chức năng và cơ cấu tổ chức:
FAO hoạt động như là một trung tâm thu thập và phân tích các thông tin về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, lương thực và dinh dưỡng trên phạm vi toàn cầu. FAO cũng là một diễn đàn quốc tế quan trọng về lương thực và nông nghiệp, là nguồn tư vấn về chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp.
FAO là một trong những trung tâm lớn trên thế giới khuyến khích và tìm nguồn tài chính hỗ trợ chương trình hợp tác kỹ thuật giữa các nước thành viên.
Bộ máy của FAO gồm: Đại hội đồng, Hội đồng và các Ủy ban chuyên trách:
+ Đại Hội đồng là cơ quan quyền lực cao nhất, hai năm họp một lần để thông qua các chương trình và ngân sách cho các hoạt động của tổ chức.
+ Hội đồng gồm 49 nước thành viên do Đại Hội đồng bầu (nhiệm kỳ 3 năm) là cơ quan lãnh đạo FAO trong nhiệm kỳ 3 năm.
+ Các Ủy ban chuyên trách như Ủy ban nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản... có trách nhiệm giúp Hội đồng và Đại hội đồng các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình.
+ Ban Thư ký, đứng đầu là Tổng Giám đốc, ông José Graziano da Silva, (quốc tịch Braxin, nhậm chức ngày 1/1/2012, tái đắc cử nhiệm kỳ hai từ 01/08/2015 đến 31/07/2019), được đánh giá khá tích cực với việc đề ra một loạt biện pháp để đẩy nhanh quá trình cải tổ FAO, đề ra các ưu tiên lớn cho FAO trong thời gian tới, trong đó tập trung vào giải quyết các thách thức lớn hiện nay là đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường sinh thái, tăng cường các cơ chế hợp tác như hợp tác Nam – Nam, các chương trình hợp tác và Quỹ Ủy thác. Ông Tổng Giám đốc tỏ quan tâm đến vai trò khu vực Châu Á, trong đó có ASEAN, cũng như vai trò của các nước đang phát triển có nền nông nghiệp lớn, thành công như Việt Nam.
3. Ngân sách hoạt động
Ngân sách của FAO gồm: Ngân sách thường xuyên (regular budget) và Chương trình trợ giúp các nước.
Ngân sách thường xuyên là nguồn vốn do các nước thành viên của FAO đóng góp trực tiếp. Trên thực tế, hoạt động của FAO ngày càng tăng và đa dạng. Năm 1993, ngân sách thường xuyên của FAO là 673,1 triệu USD,năm 2003 giảm xuống còn hơn 650 triệu USD. Năm tài khóa 2018-2019, ngân sách FAO là 2,6 tỷ USD, trong đó 39% là đóng góp thường xuyên của các nước thành viên và 61% là đóng góp tự nguyện của các quốc gia thành viên và đối tác của FAO.
Trong ngân sách của FAO, các hỗ trợ hợp tác về nông nghiệp chiếm tới 71% vốn, thực hiện chức năng chính 11%, chi cho hoạt động của các văn phòng khu vực 5%, quản lý 6%, các chương trình hợp tác kỹ thuật 5%.
Chương trình trợ giúp các nước là nguồn tài chính được cấp chủ yếu từ Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) và Quỹ Ủy thác (Trust Fund) của các ngân hàng hoặc của một số nước.
4. Hình thức trợ giúp và hợp tác của FAO
a. Hợp tác thông qua các dự án UNDP:
Trong khuôn khổ các dự án UNDP, ngoài UNDP và nước nhận viện trợ, FAO tham gia như một thành viên thứ ba. Trong mối quan hệ này, FAO vừa là cơ quan điều hành dự án, vừa là cơ quan hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp chuyên gia cho dự án.
b. Hợp tác thông qua Chương trình hợp tác kỹ thuật (TCP):
Đây là sự hỗ trợ của FAO dưới hình thức dự án trợ giúp các nước thành viên. Mỗi dự án trị giá khoảng từ 250.000 USD đến 500.000 USD, trích từ nguồn ngân sách thường xuyên của FAO. Chương trình hợp tác kỹ thuật TCP cung cấp vốn và kỹ thuật dưới các hình thức như chuyên gia, dịch vụ tư vấn và cung cấp trang thiết bị quan trọng cho dự án. Khoảng 60% dự án TCP hỗ trợ trực tiếp cho các nước nhận viện trợ và 40% cho các chương trình quốc tế khác. Đặc trưng của dự án TCP là không cần tổ chức các đoàn đánh giá khi dự án kết thúc. Trung bình thời gian thực hiện dự án là một năm, tuy nhiên, ngoại lệ có dự án kéo dài nhưng không được quá hai năm.
c. Hợp tác thông qua Quỹ Uỷ thác (TF) của FAO:
Đây là nguồn viện trợ nước ngoài của các chính phủ, các ngân hàng và các tổ chức trên thế giới thông qua FAO thực hiện và quản lý.
d. Hợp tác thông qua Sáng kiến Chương trình Lương thực truyền thông (TeleFood).
Sáng kiến này được FAO đưa ra năm 1997. Hàng năm được phát động nhằm mục đích huy động thêm nguồn tài chính cho các dự án chống đói nghèo; thông qua các hoạt động truyền thông giúp nâng cao nhận thức của người dân về nạn đói nghèo trên thế giới. Nguồn vốn cho mỗi dự án thuộc loại này rất hạn chế, chỉ khoảng 10.000 USD/dự án.
đ. Hợp tác thông qua Chương trình đặc biệt về An ninh lương thực (SPFS-Special Programme for Food Security).
Chương trình này do FAO phát động năm 1994 và được Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Lương thực lần thứ nhất (11/1996) tại Rôm thông qua. Chương trình SPFS được triển khai ở 69 quốc gia nhằm nâng cao năng lực cho các nhóm nông dân nhỏ và các hộ nghèo thành thị, giúp họ hiểu được những trở ngại cũng như những cơ hội trong việc giải quyết vấn đề an ninh lương thực bền vững. Giai đoạn 1 của SPFS tập trung vào 4 ưu tiên : (1) quản lý đất đai và nước, (2) nâng cao năng suất trên cơ sở bền vững, (3) đa dạng hoá cây trồng và (4) cộng đồng tham gia vào tìm hiểu những trở ngại đối với kinh tế-xã hội. Giai đoạn 2 tập trung vào điều chỉnh các chính sách đầu tư và phát triển nông nghiệp.
e. Hợp tác thông qua Chương trình hợp tác giữa các nước đang phát triển gọi tắt là hợp tác Nam-Nam:
Mục đích của Chương trình là nhằm khuyến khích sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước đang phát triển, cho phép nước nhận dự án được nhận các kinh nghiệm của các nước đang phát triển khác thông qua việc sử dụng chuyên gia của chính các nước đang phát triển thực hiện dự án. Nội dung chủ yếu của Chương trình hợp tác Nam-Nam là nước đang phát triển này cung cấp kinh nghiệm, chuyên gia trong các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp vv .. cho các nước đang phát triển khác. Chương trình được đánh giá cao vì chi phí cho chuyên gia thấp, dễ chia sẻ kinh nghiệm vì các nước đang phát triển có nhiều điều kiện và trình độ phát triển tương tự.
II. QUAN HỆ VIỆT NAM - FAO
Trong những năm qua, FAO đã tham gia tài trợ và thực hiện khoảng gần 500 dự án ở Việt Nam FAO là một đối tác quan trọng và là nguồn cung cấp chính các hỗ trợ kỹ thuật cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, hỗ trợ tài chính của FAO những năm gần đây có xu hướng giảm. Hiện Việt Nam là 1 trong 49 thành viên Hội đồng FAO (nhiệm kỳ 2018-2021).
1. FAO bắt đầu hoạt động tại Việt Nam từ năm 1978 và chính thức mở văn phòng đại diện tại Hà Nội năm 1979. Tại thời điểm đó, Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức to lớn do hậu quả của chiến tranh tàn phá cơ sở vật chất và hạ tầng kinh tế của đất nước. Cũng do việc cấm vận của Mỹ hồi đó, Việt Nam hầu như không thể tiếp cận với nhiều kênh viện trợ phát triển truyền thống. Trong thời điểm khó khăn đó, FAO đã nhanh chóng trở thành một đối tác quan trọng và là tổ chức đóng góp chủ yếu về hỗ trợ kỹ thuật trong lĩnh vực nông nghiệp cho Việt Nam. Trong những năm 1980, chương trình của FAO tại Việt Nam có quy mô lớn thứ 3 trên thế giới, chỉ sau Ấn Độ và Trung Quốc.
- FAO đã hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong suốt những năm 1980 và 1990 trong việc tăng sản lượng gạo, ngô, cà phê, chè, cao su, bông, bò thịt, bò sữa, lợn, thỏ, gà và vịt, trong việc trồng rừng và trong việc phát triển ngành đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Sau này, trọng tâm các hoạt động của FAO thay đổi và tập trung vào việc cung cấp tư vấn về chính sách. Song song với việc đó, FAO cũng đóng góp cho việc xây dựng luật pháp nhằm tăng cường khả năng của ngành nông nghiệp đáp ứng được những thách thức và cơ hội từ môi trường kinh tế thị trường mới. Ngoài ra FAO còn giúp Việt Nam thông qua các chương trình viện trợ khẩn cấp khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, cũng như ứng phó với dịch bệnh ở cây trồng và vật nuôi.
- Hợp tác của FAO với Việt Nam giai đoạn 2012-2016 với tổng vốn đầu tư 62,5 triệu USD được dựa trên Chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2010-2020, với các ưu tiên trong 04 lĩnh vực chính gồm: (i) hỗ trợ xây dựng chính sách cho khu vực nông thôn nhằm đảm bảo dinh dưỡng và an ninh lương thực; (ii) hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu và di cư; (iii). tăng cường cung cấp về hàng hóa vả dịch vụ từ khu vực nông, lâm, như nghiệp; (iv) xây dựng hệ thống nông nghiệp và thực phẩm bền vững, hỗ trợ các nhóm yếu thế.
- Tháng 12/2017, Việt Nam và FAO đã ký Khung chương trình hợp tác Việt Nam – FAO (CPF) giai đoạn 2017-2021, với tổng mức đầu tư 30,05 triệu USD (tại thời điểm ký mới có sẵn 6,9 triệu USD, 23 triệu USD sẽ được huy động qua các kênh hợp tác song phương và hỗ trợ của các tổ chức tài chính, quốc tế khác). CPF 2017-2021 tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: (i) Tăng cường an ninh lương thực, tập trung xóa đói, giải quyết tình trạng suy dinh dưỡng và cải thiện an toàn thực phẩm; (ii) Phát triển nông nghiệp bền vững nhằm góp phần thực hiện chiến lược Tăng trưởng xanh và các chiến lược khác về nâng cao hiệu quả quản lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; (iii) Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững; (iv) Nâng cao khả năng chống chịu cho các cộng động trước thiên tai, thảm họa.
- Ngày 06/7/2018, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Nghị quyết về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định về Biện pháp quốc gia có cảng nhằm ngăn chặn, chống lại khai thác thủy sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định của FAO (Hiệp định PSMA).
- Trong khuôn khổ của Sáng kiến Một Liên hợp quốc, ưu tiên hợp tác những năm tới giữa Việt Nam và FAO tập trung vào các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực, an toàn thực phẩm (bao gồm giảm thiểu rủi ro từ các loại thuốc trừ sâu, chất ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ), tăng cường dinh dưỡng, xoá đói giảm nghèo, chuyển đổi sinh kế bền vững, giảm thiểu tác động và ứng phó với biến đổi khí hậu, và bảo vệ môi trường.
- Sự hỗ trợ của FAO sẽ giúp Việt Nam thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông thôn và nông dân (Nghị quyết Tam Nông), Chương trình Mục tiêu Quốc gia về Phát triển nông thôn mới và Chiến lược hội nhập quốc tế ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2030.
2. Việt Nam cũng đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong hợp tác phát triển nông nghiệp thông qua Chương trình Hợp tác Nam-Nam (SSC) của FAO. Thông qua chương trình này, Việt Nam đã cử các chuyên gia nông nghiệp tới nhiều nước đang phát triển trên thế giới như Senegal, Be-nanh, Madagascar, Lào, Cộng hoà Công-gô, Mali, Chad, Namibia, Tanzania, v.v.. để giúp xây dựng, triển khai các chương trình phát triển nông nghiệp và cải thiện môi trường sống cho người dân nông thôn. Những đóng góp của Việt Nam đã được FAO đánh giá rất cao và phía FAO đề nghị Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh vai trò của mình trong Chương trình này.
3. Một số dự án lớn do FAO tài trợ:
- Dự án “Tăng cường thú y cộng đồng thông qua việc hỗ trợ triển khai Luật An toàn thực phẩm mới và tăng cường hệ thống giám sát, giảm thiểu các nguy cơ về ngộ độc thực phẩm và bệnh lây truyền giữa người và động vật” (UNJP/VIE/047/UNJ) từ 1/4/2011 đến 31/12/2011 với tổng số vốn khoảng 453.600 USD do FAO;
- Dự án “Hỗ trợ khẩn cấp khống chế sự lây lan dịch bệnh chưa được xác định trên tôm” 12 tháng, bắt đầu từ tháng 1/2012, với tiền tài trợ 500,000 USD của FAO;
- Dự án “Hỗ trợ kỹ thuật công tác điều phối và thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới” trong 2 năm 2012-2013, với tổng số vốn là 433.000 USD, trong đó vốn ODA của FAO tài trợ là 397.000 USD.
- Dự án "Hỗ trợ kỹ thuật nhằm nâng cao sẵn sàng ứng phó với cúm gia cầm" (giai đoạn 6 của dự án này, tổng số vốn 1.7 triệu USD do Mỹ tài trợ qua FAO, thực hiện từ 2012).
- Dự án “Tăng cường năng lực thể chế và nâng cao sự phối hợp, truyền thông liên ngành để phòng chống và kiểm soát bệnh Dại hiệu quả ở Việt Nam”, với tổng số vốn là 380.000 USD trong thời gian từ tháng 12/2013-12/2014
- Dự án “Xây dựng hệ thống giám sát và phân tích chính sách chăn nuôi tại Việt Nam”, với tổng số vốn ODA là 299.000 USD từ tháng 3/2014-10/2015.
- Dự án “TCP-RAS/3506 – Tăng cường quyến ở hữu rừng để phát triển bền vững kinh tế và tạo nguồn thu nhập" của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn", do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) tài trợ (375,000USD), triển khai trong 2 năm (9/2014-9/2016).
- "Chương trình hỗ trợ rừng và trang trại tại Việt Nam", do Quỹ Nông lương (FAO) tài trợ với tổng số vốn ODA là 600.000USD và thực hiện trong 3 năm 2014-2017.
- Dự án toàn cầu “Gắn kết ngành nông nghiệp và lương thực tại tiểu vùng Saharan ở châu Phi, khu vực Nam Á và Đông Nam Á vào nỗ lực toàn cầu chống lại tình trạng kháng thuốc kháng sinh áp dụng các tiếp cận Một sức khỏe” do FAO tài trợ với tổng số vốn ODA là 300.000 USD, triển khai tại các tỉnh: Vĩnh Phúc, Bình Định, Đồng Nai và Hà Nội; thời gian thực hiện từ tháng 9/2017 - 3/2019
- Bổ sung kinh phí 9,9 triệu USD và gia hạn dự án “Giảm thiểu rủi ro và quản lý các môi đe doại sức khỏe con người theo chuỗi giá trị động vật” (đã được Thủ tướng Chính phủ) phê duyệt từ tháng 07/2015 đến tháng 9/2019./.
(Tháng 6/2019)

