1. Mục đích thành lập
Tiền thân của ESCAP là Uỷ ban Kinh tế Châu Á-Viễn đông (ECAFE) được thành lập 10/1947 tại Thượng Hải, Trung Quốc theo Nghị quyết 46(1) ngày 11/12/1946 của Đại Hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) và Nghị quyết 37 tại khoá họp lần IV (1947) của Hội đồng Kinh tế-Xã hội LHQ (ECOSOC). ECAFE được thành lập do nhu cầu của các nước trong khu vực cần có sự giúp đỡ để tái thiết lại đất nước và phát triển kinh tế-xã hội sau chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Từ năm 1974, ECAFE được đổi tên thành ESCAP (tên viết tắt của Ủy ban Kinh tế Xã hội Châu Á-Thái Bình Dương) cho phù hợp với quy mô và phương hướng hoạt động mới và rộng lớn hơn của tổ chức này. ESCAP là một trong năm Ủy ban khu vực của Liên hợp quốc, gồm Ủy ban Kinh tế LHQ tại Châu Âu, Ủy ban Kinh tế LHQ tại Mỹ La tinh và Caribea, Ủy ban Kinh tế Xã hội Tây Á và Ủy ban Kinh tế LHQ tại Châu Phi. Với Nghị quyết số 321197 do Đại hội đồng LHQ thông qua năm 1977, ESCAP và các Ủy ban khu vực được trao nhiệm vụ là trung tâm phát triển kinh tế, xã hội của LHQ tại các khu vực, có vai trò quan trọng trong việc điều phối các hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, xã hội tại các nước trong khu vực.
ESCAP có những chức năng và nhiệm vụ sau: (i) thúc đẩy sự hợp tác phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường quan hệ hợp tác giữa các nước trong và ngoài khu vực; tập hợp các nước thành viên nhằm giải quyết các vấn đề mang tính khu vực, xuyên biên giới, đang nổi tại khu vực cần sự hợp tác giữa các nước; (ii) là diễn đàn để các nước thành viên tăng cường hợp tác khu vực và thực hiện các hoạt động mang tính thống nhất, hỗ trợ các nước trong việc xây dựng và duy trì tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội; (iii) tạo cơ hội tham gia nhiều hơn cho các nước nhỏ và ít có tiếng nói trong khu vực, các nước kém phát triển, các nước đảo nhỏ và không có biển; (iv) xây dựng các chuẩn mực và chính sách tác động một cách tích cực đến cuộc sống của người dân thông qua việc hỗ trợ các nước thành viên xây dựng và thực hiện một chương trình nghị sự có tính cân đối và toàn diện hơn cho khu vực;
2. Thành viên
Với 10 thành viên khi mới thành lập, đến nay ESCAP có tất cả 53 thành viên chính thức và 9 thành viên liên kết (associate member), đại diện cho 4.1 tỉ người (khoảng 2/3 dân số thế giới). Ngoài các quốc gia tại Châu Á-Thái Bình Dương, ESCAP còn bao gồm cả Mỹ, Anh Pháp, và Hà Lan.
Các nước và lãnh thổ trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, nếu đã là thành viên LHQ đều có quyền tham gia ESCAP với tư cách là thành viên chính thức.
Tại ESCAP, các nước thành viên có quyền tham gia hoạch định chính sách cho các hoạt động của ESCAP nhằm đáp ứng những nhu cầu phát triển của các nước thành viên, giải quyết những khó khăn và thách thức đối với phát triển kinh tế-xã hội ở khu vực. Với đội ngũ chuyên gia có khả năng chuyên môn sâu rộng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, ESCAP có khả năng giúp đỡ các nước thành viên trong khu vực giải quyết những vấn đề khó khăn trong công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia.
3. Các hoạt động chủ yếu của ESCAP
Mục tiêu chính của ESCAP là thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội toàn diện và bền vững tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, trọng tâm hiện nay là thực hiện Chương trình Nghị sự phát triển 2030 và các Mục tiêu phát triển bền vững (SDGs). ESCAP đặc biệt quan tâm đến tăng cường năng lực cho các nước thành viên thông qua các hoạt động đào tạo; tư vấn kỹ thuật và chính sách; nghiên cứu và phân tích đánh giá tình hình kinh tế-xã hội ở khu vực; phổ biến thông tin và kinh nghiệm.
ESCAP cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn chính sách cho các nước thành viên trên những lĩnh vực sau: chính sách kinh tế vĩ mô, giảm đói nghèo và tài chính cho phát triển; thương mại, đầu tư và sáng chế; giao thông vận tải; môi trường và phát triển; thông tin, công nghệ truyền thông và giảm thiểu thiên tai; phát triển xã hội; thống kê; năng lượng.
4. Cơ cấu tổ chức của ESCAP
Uỷ ban (Commision:) là cơ quan cao nhất của ESCAP, gồm đại diện của tất cả các nước thành viên. Uỷ ban mỗi năm họp một lần. Cuộc họp hàng năm này tạo cơ hội cho các nước thành viên xem xét và thảo luận tất cả các vấn đề kinh tế-xã hội và hợp tác khu vực trên các lĩnh vực cùng quan tâm, đồng thời xem xét các chương trình hoạt động của ESCAP.
Tháng 5/2015, Ủy ban đã thông qua Nghị quyết 71/1 cải tổ cơ cấu tổ chức của Ủy ban cho phù hợp với sự phát triển của Chương trình nghị sự phát triển sau 2015, gồm 09 Ban chuyên ngành, tương ứng với các lĩnh vực hoạt động chính của ESCAP như sau:
* Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, xóa đói giảm nghèo và tài chính cho phát triển
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề về (i) Kinh nghiệm và thực tế về xây dựng và triển khai các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm giảm nghèo đói và bất bình đẳng, cũng như đạt được phát triển toàn diện bền vững; (ii) Các chính sách và lựa chọn phát triển kinh tế khu vực; (iii) Tài chính cho phát triển, bao gồm thúc đẩy các nguồn tài chính trong nước, tăng cường tác động xã hội của đầu tư từ lĩnh vực tư nhân và tiếp cận các cơ chế, quỹ tài chính khu vực; (iv) Kinh nghiệm và thực tế về xây dựng các quy định và thể chế nhằm củng cố và tăng cường thị trường tài chính khu vực; (v) Kiểm điểm các chính sách tăng trưởng kinh tế vì người nghèo, nhất là tại các nước có điều kiện đặc biệt khó khăn và (vi) Các lựa chọn về chính sách và chương trình xóa đói giảm nghèo, bao gồm các chương trình có khía cạnh bình đẳng giới, thông qua phát triển nông nghiệp bền vững. Hỗ trợ công việc cho Ban Chính sách kinh tế vĩ mô, xóa đói giảm nghèo và phát triển toàn diện là Tiểu ban Chính sách kinh tế vĩ mô và Tài chính cho Phát triển.
* Ban Thương mại và Đầu tư
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan tới (i) Các cơ chế và thỏa thuận hợp tác khu vực trong thương mại và đầu tư, bao gồm Hiệp định Thương mại Châu Á – Thái Bình Dương; (ii) các lựa chọn chính sách về thương mại và đầu tư, phát triển doanh nghiệp và tài chính; (iii) các lựa chọn chính sách và chiến lược cho tăng trưởng kinh tế bền vững và xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn thông qua chuyển giao công nghệ về nông nghiệp và phát triển các doanh nghiệp dựa vào nông nghiệp. Hỗ trợ công việc cho Ban Thương mại và Đầu tư là Tiểu ban Thương mại và Đầu tư.
* Ban Giao thông:
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan tới (i) Các lựa chọn chính sách và chương trình giao thông, bao gồm chương trình nghị sự sau 2015 và các thỏa thuận khu vực; (ii) Đường cao tốc châu Á, Đường sắt xuyên Á và các sáng kiến khác được Ủy ban thúc đẩy nhằm lập kế hoạch và tài trợ cho các hệ thống kết nối giao thông quốc tế; (iii) Các biện pháp cải thiện an toàn đường bộ, tăng cường hiệu quả của hoạt động về giao thông và hậu cần; (iv) hỗ trợ việc gia nhập và triển khai các hiệp định giao thông quốc tế. (v) Hài hòa các tiêu chuẩn và tài liệu về giao thông, áp dụng các công nghệ giao thông mới; (vi) Sự tham gia của lĩnh vực tư nhân trong việc tài trợ và bảo trì cơ sở hạ tầng giao thông, bao gồm hợp tác công-tư (PPP). Hỗ trợ công việc cho Ban Giao thông là Tiểu ban Giao thông.
* Ban Môi trường và Phát triển
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan tới (i) Các chính sách và chiến lược nhằm tăng cường sự phát triển kinh tế, xã hội mang tính bền vững về mặt môi trường, bao gồm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu; (ii) các chính sách và chiến lược nhằm quản lý bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao gồm nguồn tài nguyên nước; (iii) Các chính sách và chiến lược nhằm thúc đẩy phát triển đô thị toàn diện và bền vững. Hỗ trợ công việc cho Ban Môi trường và Phát triển là Tiểu ban Môi trường và Phát triển.
* Ban Thông tin, Công nghệ truyền thông, Khoa học, Công nghệ và Sáng chế
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề về (i) kết hợp/đưa các vấn đề liên quan tới thông tin và công nghệ truyền thông vào trong các chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển; (ii) chuyển giao và ứng dụng thông tin và công nghệ truyền thông tại cấp khu vực và tiểu khu vực; (iii) thông tin và công nghệ truyền thông, bao gồm các ứng dụng về vũ trụ, phục vụ giảm thiểu thiên tai; (iv) nâng cao năng lực con người và thể chế qua việc sử dụng thông tin và công nghệ truyền thông; (iv) các lựa chọn về chính sách và chiến lược nhằm tăng cường hợp tác trong việc tạo ra và tiếp cận khoa học, công nghệ và sáng chế về phát triển bền vững, bao gồm các cơ chế khu vực về chuyển giao công nghệ; (vi) Đưa vấn đề khoa học, công nghệ và sáng chế vào các chính sách, chiến lược và kế hoạch phát triển. Hỗ trợ cho Ban Thông tin, Công nghệ truyền thông, Khoa học, Công nghệ và Sáng chế là Tiểu ban Thương mại, Đầu tư và Sáng chế; và Tiểu ban Thông tin, Công nghệ truyền thông và Giảm thiểu thiên tai.
* Ban Giảm thiểu thiên tai:
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan tới (i) các lựa chọn chính sách và chiến lược về giảm thiểu nguy cơ thiên tai; (ii) các cơ chế hợp tác khu vực nhằm quản lý nguy cơ thiên tai, bao gồm không gian và các hệ thống hỗ trợ kỹ thuật khác; (iii) đánh giá nguy cơ, chuẩn bị, cảnh báo sớm và phản ứng trước nguy cơ thiên tai. Hỗ trợ cho Ban Giảm thiểu thiên tai là Tiểu ban Công nghệ thông tin và Giảm thiểu thiên tai.
* Ban Phát triển xã hội:
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề về (i) Kiểm điểm việc thực hiện cấp khu vực các mục tiêu và cam kết đã thỏa thuận quốc tế về phát triển xã hội; (ii) Đánh giá các xu hướng về dân số và phát triển, bao gồm di cư quốc tế và tác động của vấn đề đó đối với phát triển; (iii) Thảo luận các vấn đề về bất bình đẳng và thúc đẩy hòa nhập xã hội đối với thanh niên, người khuyết tật, người già và các nhóm xã hội yếu thế khác; (iv) Thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ; (v) Tăng cường bảo trợ xã hội và hệ thống y tế. Hỗ trợ cho Ban Phát triển xã hội là Tiểu ban Phát triển xã hội.
* Ban Thống kê:
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề liên quan tới (i) Đảm bảo tới năm 2020, tất cả các nước trong khu vực có khả năng cung cấp các số liệu thống kê cơ bản về dân số, kinh tế, xã hội và môi trường; (ii) Tạo ra một môi trường quản lý thông tin có tính thích ứng và hiệu quả cho các cơ quan thống kê quốc gia thông qua sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các cơ quan này. Hỗ trợ cho Ban Thống kế là Tiểu ban Thống kê.
* Ban Năng lượng:
Ban này có chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề về (i) Hỗ trợ trong việc xây dựng các chiến lược nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển được thỏa thuận cấp toàn cầu về năng lượng; (ii) Thúc đẩy đối thoại chính sách và lập mạng lưới giữa các quốc gia nhằm xây dựng một khuôn khổ hợp tác khu vực để tăng cường an ninh năng lượng, với mục tiêu thúc đẩy sử dụng nhiều hơn các nguồn năng lượng bền vững; (iii) Đề ra các lựa chọn chính sách nhằm tăng cường các khuôn khổ liên chính phủ về thúc đẩy kết nối năng lượng khu vực, nhằm tạo ra một cơ chế hỗ trợ cho hợp tác và hội nhập kinh tế khu vực; (iv) Hỗ trợ việc triển khai Diễn đàn năng lượng Châu Á-Thái Bình Dương và các thỏa thuận khu vực khác, bao gồm Chương trình nghị sự sau 2015 về hợp tác khu vực nhằm tăng cường an ninh năng lượng và sử dụng năng lượng bền vững.
Đặc biệt, ESCAP có Ban Cố vấn (ACPR), gồm Đại diện Thường trực tại ESCAP của các nước thành viên” (Adviory Commitee of Permanent Representatives and Other Representatives). Ban cố vấn họp mỗi tháng một lần để đóng góp và trao đổi ý kiến với Thư ký điều hành ESCAP về mọi mặt hoạt động và công việc của ESCAP. Ban Cố vấn có nhiệm vụ cùng Ban thư ký hoạch định chương trình công tác của ESCAP cũng như xác định các vấn đề ưu tiên trong các hoạt động, theo dõi và đánh giá việc thực hiện các chương trình công tác đã được Uỷ ban đề ra.
Ban Thư ký ESCAP là cơ quan giúp việc cho Uỷ ban để thực hiện các chương trình công tác được Uỷ ban thông qua. Đứng đầu Ban Thư ký là Thư ký điều hành do Tổng Thư ký Liên hợp quốc bổ nhiệm.
5. Nguồn tài chính
Nguồn ngân sách của ESCAP gồm hai phần:
* Ngân sách thường xuyên: Lấy từ nguồn Ngân sách Thường xuyên của Liên hợp quốc (Regular Resources) do các nước thành viên Liên hợp quốc đóng góp. Ngân sách thường xuyên này được dùng để duy trì hoạt động của Ban Thư ký ESCAP.
* Đóng góp tự nguyện của các nước thành viên ESCAP hay của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ (NGOs). Nguồn ngân sách này được sử dụng cho các chương trình và dự án của ESCAP.
6. Hợp tác giữa Việt Nam và ESCAP
ESCAP có quan hệ với ta ngay sau ngày đất nước ta thống nhất và đã hỗ trợ kỹ thuật cho nhiều ngành kinh tế, xã hội; các trọng tâm hoạt động hiện nay của ESCAP cũng phù hợp với quan tâm của Chính phủ ta.
Trong thời gian qua, quan hệ hợp tác giữa ta và ESCAP tiếp tục phát triển tốt đẹp. Nhiều cán bộ các Bộ, ngành của ta đã tham gia các hội nghị, hội thảo chuyên đề do ESCAP tổ chức trên nhiều lĩnh vực như chính sách kinh tế vĩ mô, các vấn đề xã hội, phát triển nông nghiệp, giao thông vận tải, thông tin-truyền thông, thống kê, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường…, qua đó góp phần nâng cao năng lực hoạch định chính sách, lựa chọn giải pháp trong công tác quản lý. Lãnh đạo ESCAP cũng thường xuyên vào thăm và làm việc tại Việt Nam.
Ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham dự các Hội nghị quan trọng của ESCAP như Diễn đàn Châu Á-Thái Bình Dương về phát triển bền vững (APFSD); các Khóa họp của các Trung tâm khu vực của ESCAP như Trung tâm chuyển giao kỹ thuật Châu Á-Thái Bình Dương (APCTT), Trung tâm Xóa đói giảm nghèo (CAPSA), Trung tâm Cơ khí hóa Nông nghiệp bền vững (CSAM)… Ta cũng đăng cai tổ chức một số hội nghị, hội thảo của ESCAP. Ta là thành viên Trung tâm cơ giới hóa Nông nghiệp bền vững trong nhiệm kỳ 2012-2015 và tái cử nhiệm kỳ 2015-2018. Ta cũng cử chuyên gia tham gia các Nhóm chỉ đạo/làm việc khu vực về đăng ký công dân và Thống kê hộ tịch, Thuận lợi hóa thương mại phi giấy tờ xuyên biên giới, Đường cao tốc Châu Á, Hỗ trợ vận tải đường sắt quốc tế, Đường sắt xuyên Á…
Các Bộ, ngành của ta đánh giá cơ bản tích cực về vai trò của ESCAP trong thúc đẩy hợp tác khu vực, tư vấn chính sách, trao đổi thông tin, kinh nghiệm về các vấn đề cùng quan tâm; mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ với ESCAP, nhất là tranh thủ kinh nghiệm, tư vấn của ESCAP cho quá trình xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế-xã hội của ta.