BỘ NGOẠI GIAO
--------------
TƯ LIỆU CƠ BẢN
CỘNG HÒA CHI-LÊ
I. KHÁI QUÁT:
- Tên nước: Cộng hoà Chi-lê (República de Chi-lê).
- Thủ đô: Santiago (từ năm 1541).
- Vị trí địa lý: ở Nam Mỹ, bắc giáp Peru, đông giáp Bô-li-vi-a và Ác-hen-ti-na, tây giáp Thái Bình Dương, đông nam giáp Đại Tây Dương.
- Diện tích: 756.950 km2, ngoài ra còn có 1.250.000 km2 ở Nam cực.
- Chiều dài bờ biển: 6.435 km.
- Khí hậu: Đa dạng, phụ thuộc vào địa hình.
- Dân số: 17,1 triệu (2011).
- GDP (2011): 243 triệu USD, đứng thứ 63 trên thế giới.
- GDP/đầu người: 14.300 USD/năm (2011)
- Tôn giáo: 85% dân số theo Thiên chúa giáo.
- Tỉ lệ mù chữ: 4,3%
- Ngôn ngữ: Tiếng Tây Ban Nha (tiếng thổ dân bản địa: Mapuche).
- Tiền tệ: Đồng peso
- Quốc khánh: 18/9/1810.
- Tổng thống: Xê-ba-xti-an Pi-nhê-ra Ê-chê-ni-kê (Sebastián Piñera Echenique) nhậm chức 11/3/2010, nhiệm kỳ 2010-2014.
- Ngoại trưởng: An-Phrê-đô Mô-rê-nô Chát-mê (Alfredo Moreno Charme) từ 3/2010.
II. LỊCH SỬ:
- 1520: Ma-ga-gia-nê phát hiện ra Chi-lê.
- 1535: Tây Ban Nha xâm chiếm Chi-lê.
- 1810: Đấu tranh giành độc lập dưới sự lãnh đạo của Bê-nan-đô Ô-hinh-gít (Bernardo O’Higgins).
- 1818: Chiến tranh giành độc lập thắng lợi.
- 1823: Xoá bỏ chế độ nô lệ.
- 1879-1883: Chiến tranh giữa Chi-lê với Bô-li-vi-a và Pê-ru.
- 1920-1930: Cải cách xã hội.
- 1938-1941: Mặt trận Nhân dân (gồm các Đảng Cộng sản, Xã hội và Cấp tiến) lên cầm quyền ở Chi-lê.
- 1970: Liên minh Đoàn kết Nhân dân thắng cử, Tiến sĩ Xan-va-đo A-giên-đê (Salvador Allende) lên làm Tổng thống.
- 1973: Tướng A-gu-xtô Pi-nô-chê (Augusto Pinochet) làm đảo chính quân sự, sát hại Tổng thống A-giên-đê , thiết lập chế độ độc tài quân sự trong 17 năm.
- 1989: Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (trong Liên minh Thống nhất) thắng cử, chế độ dân sự được khôi phục.
- 12/1999: Ông Ri-các-đô La-gôt (Ricardo Lagos) thuộc Đảng vì Dân chủ trong Liên minh Thống nhất cầm quyền trúng cử Tổng thống, chính thức nhậm chức từ tháng 3/2000.
- 15/1/2006, Bà M. Ba-chê-lê (M.Bachelet) ứng cử viên Đảng Xã hội thuộc Liên minh cầm quyền đắc cử Tổng thống Chi-lê và nhậm chức ngày 11/3/2006, trở thành nữ Nguyên thủ quốc gia đầu tiên trong lịch sử Chi-lê.
- 17/1/2010, ứng cử viên Liên minh vì Thay đổi theo khuynh hướng trung hữu đối lập (gồm 3 Đảng: Đổi mới quốc gia, Chi-lê trước hết và Liên minh Dân chủ độc lập) Xê-ba-xti-an Pi-nhê-ra Ê-chê-ni-kê (Sebastián Piñera Echenique) thắng cử (vòng 2) với 51,6% phiếu bầu, nhậm chức Tổng thống Chi-lê ngày 11/3/2010, nhiệm kỳ 2010-2014.
III. CHÍNH TRỊ:
Theo thể chế Cộng hoà; Tổng thống là Nguyên thủ quốc gia và đứng đầu Chính phủ, được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm.
Quốc hội bao gồm hai Viện: Thượng viện có 38 Thượng nghị sĩ, nhiệm kỳ 8 năm; Hạ viện có 120 Hạ nghị sĩ, nhiệm kỳ 4 năm, bầu trực tiếp.
Các đảng chính: Liên minh Thống nhất cầm quyền gồm Đảng Xã hội, Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo, Đảng vì Dân chủ và Đảng Cấp tiến; Liên minh vì Thay đổi gồm Đảng Đổi mới quốc gia, Chi-lê trước hết và Liên minh Dân chủ độc lập...
IV. KINH TẾ:
Chi-lê có đặc trưng của một nền kinh tế ngoại thương phát triển và thể chế tài chính vững mạnh. Giàu tài nguyên khoáng sản như kim loại đồng (đứng đầu thế giới về trữ lượng, chiếm 40%), diêm tiêu, sắt, than, gỗ và tài nguyên biển với chiều dài bờ biển trên 6.000 km; là nước sản xuất đồng lớn nhất thế giới, chiếm tới 1/3 sản lượng toàn cầu và khoảng ½ giá trị kim ngạch xuất khẩu của Chi-lê (năm 2011 chiếm 48,1%) ; đứng đầu thế giới về sản xuất bột cá. Các sản phẩm xuất khẩu của Chi-lê đóng góp ¼ tổng GDP của cả nước.
Đặc biệt, những năm gần đây Chi-lê chủ trương đẩy mạnh tự do hóa thương mại, trở thành một trong những nước ký FTA nhiều nhất trên thế giới bao gồm: với Mỹ (31/12/2003), Ca-na-đa (5/7/97), Liên minh EU (1/2/03) và Khối thị trường chung Châu Âu (1/12/2004), Nhật (27/3/2007), Trung Quốc (23/9/2006), Hàn Quốc (1/4/2004), Malaysia (13/11/2010), Mê-xi-cô (31/7/1999), Pa-na-ma (7/3/2008) và 5 nước Trung Mỹ (14/2/2002), Cô-lôm-bi-a (8/5/2009), Việt Nam (11/2011) và một số nước Trung Đông...
Từ thập niên 1990, kinh tế Chi-lê tăng trưởng khá ổn định (trung bình 6%/năm) là một trong những nước tăng trưởng cao và bền vững hàng đầu tại khu vực. Năm 2011, Chi-lê được Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp hạng 31/133 về sức cạnh tranh. Chi-lê là nước Nam Mỹ đầu tiên gia nhập OECD (5/2009), đặt mục tiêu trở thành một nước phát triển vào năm 2015.
Năm 2011 tăng trưởng kinh tế đạt 6,5% với mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất trong 13 năm qua, đạt 14.000 USD/người/ năm. Từ năm 1990 đến 2011, Chi-lê đầu tư ra nước ngoài 60,23 tỷ USD, chủ yếu là sang các nước thuộc nhóm MECOSUR (chiếm 38,9%) tiếp theo là các nước thuộc Cộng đồng An-đi-nô (chiếm 33,6%), các nước thuộc NAFTA (15,6%), Trung Mỹ (3,6%) và EU (2,1%).
V. ĐỐI NGOẠI:
Chi-lê thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, đa dạng hoá và mở rộng quan hệ với các nước trong và ngoài khu vực, đặc biệt với Trung Quốc (chiếm 14,8% kim ngạch xuất khẩu), Hoa Kỳ (12,5%), Nhật Bản (10,5%)… và các nước thuộc Liên minh các Quốc gia Nam Mỹ (UNASUR) như Brasil (5%); thúc đẩy thương mại tự do và hoạt động tích cực trong các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế: là thành viên liên kết của Khối thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR); Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Diễn đàn Hợp tác Đông Á-Mỹ Latinh (FEALAC), Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Về các vấn đề quốc tế Chi-lê có lập trường tương đối độc lập. Chi-lê phê chuẩn hiệp định tham gia Tòa án Hình sự Quốc tế bất chấp phản đối của Mỹ (2004); ủng hộ Chính phủ Bô-li-vi-a, lên án lực lượng đối lập gây bạo động, âm mưu lật đổ chế độ dân chủ, hợp hiến của Tổng thống Bô-li-vi-a Ê-vô Mô-ra-lết (15/9/2008); chủ trương giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ với Ác-hen-ti-na, Pê-ru và Bô-li-vi-a thông qua thương lượng song phương, phản đối cuộc đảo chính quân sự ở Ôn-đu-rát (6/2009) nhưng đã thay đổi chính sách dưới thời chính quyền Tổng thống Pi-nhê-ra và ủng hộ việc Ôn-đu-rát tái gia nhập vào tổ chức các Nhà nước Châu Mỹ (OEA); phản đối Hiệp định hợp tác quân sự giữa Cô-lôm-bi-a với Mỹ (7/2009), trong đó cho phép Mỹ sử dụng 7 căn cứ quân sự trên lãnh thổ Cô-lôm-bi-a; kêu gọi chuyển giao dân chủ tại Li-bi (8/2011); ủng hộ Pa-lét-xtin làm thành viên của LHQ (9/2011); kêu gọi chấm dứt bạo lực, tôn trọng nhân quyền (8/2011) và thực hiện Kế hoạch của Liên minh Ả Rập về vấn đề Si-ri, ủng hộ dự thảo nghị quyết về tình hình nhân quyền của LHQ tại Si-ri (11/2011); lên án mạnh mẽ cuộc tấn công vào Đại sứ quán Anh tại I-ran (11/2011); ủng hộ Nghị quyết của Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) về vấn đề hạt nhân tại I-ran (11/2011); ủng hộ Chính phủ Ác-hen-ti-na trong việc cấm các tàu mang cờ Man-vi-nát (quần đảo đang chanh trấp giữa Ác-hen-ti-na và Anh) cập cảng Chi-lê (1/2012).
VI. Quan hệ với Việt Nam:
Trong thời kỳ nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam phát triển mạnh ở Chi-lê, điển hình là chuyến thăm Việt Nam và cuộc hội kiến với Chủ tịch Hồ Chí Minh của Tổng thống Xan-va-đô A-giên-đê khi đó giữ cương vị Chủ tịch Thượng viện Chi-lê (1969), nhằm bày tỏ tình đoàn kết của nhân dân Chi-lê với nhân dân Việt Nam.
Việt Nam và Chi-lê thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 25/3/1971 (là nước thứ 2 tại khu vực Mỹ Latinh thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, sau Cu-ba), mở Đại sứ quán tại Thủ đô của nhau năm 1972, nhưng quan hệ bị gián đoạn sau cuộc đảo chính quân sự do Tướng Pi-nô-chê cầm đầu lật đổ chế độ dân chủ và sát hại Tổng thống hợp hiến Xan-va-đô A-giên-đê (9/1973).
Sau khi nền dân chủ được tái lập (1989), Chính phủ Chi-lê chủ động đề nghị Việt Nam khôi phục quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ (9/1990). Ngày 18/7/2001, Việt Nam chấp thuận Lãnh sự Danh dự Chi-lê tại Hà Nội (sau chuyển thành Lãnh sự Danh dự tại TP Hồ Chí Minh). Ta mở lại Đại sứ quán và cử Đại sứ thường trú tại Thủ đô Xan-ti-a-gô (10/2003); Chi-lê mở lại Đại sứ quán và cử Đại sứ thường trú tại Hà Nội (11/2004).
Những năm gần đây, quan hệ hai nước phát triển mạnh cả về chiều rộng và chiều sâu. Hai bên thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao. Về phía ta, TTCP Phan Văn Khải (10/2002), CTN Trần Đức Lương (11/2004), TBT Nông Đức Mạnh (5/2007), Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (9/2009), PCTN Nguyễn Thị Doan (5/2009) và nhiều đoàn cấp Bộ, ngành đã thăm Chi-lê. Về phía Chi-lê, Tổng thống Ri-các-đô La-gốt (10/2003), Tổng thống Mi-chen Ba-chê-lê (11/2006); Bộ trưởng Ngoại giao Ích-na-xi-ô Gu-a-kơ (01/2006), Phó Chủ tịch Hạ viện Hô-rơ-hê U-giô-a (7/2008), Thứ trưởng Ngoại giao Van Cla-vê-rên (8/2009) và một số đoàn kinh tế - thương mại đã thăm Việt Nam.
Việt Nam và Chi-lê đã ký nhiều văn kiện hợp tác, gồm: các Hiệp định hợp tác về Kinh tế - Thương mại; Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư, Khoa học-Công nghệ, Miễn thị thực đối với hộ chiếu ngoại giao và công vụ, Kiểm dịch Động vật và Thú y, ngành mỏ, nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản, du lịch; các Thỏa thuận và Bản Ghi nhớ về: Tham khảo Chính trị và Hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao, thành lập Uỷ ban hợp tác liên chính phủ Việt Nam-Chi-lê, trao đổi và hợp tác Văn hoá - Giáo dục, Ý định thư về việc thành lập Nhóm công tác chung về Hiệp định Thương mại tự do. Hai bên đã chính thức ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) bên lề Hội nghị cấp cao APEC tại Hawai, Mỹ vào ngày 11/11/2011 sau khi trải qua 8 vòng đàm phán trong 3 năm.
Quan hệ thương mại hai chiều tăng nhanh: từ 18,69 triệu USD năm 2000; 120 triệu USD năm 2005; 170 triệu USD năm 2006; 240 triệu USD năm 2007, riêng năm 2008 giảm xuống mức 173,3 triệu USD do tác động của khủng hoảng kinh tế-tài chính toàn cầu; 264 triệu USD; năm 2009, 385,3 triệu USD năm 2010.
Năm 2011, kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Chi-lê đạt 499 triệu USD, trong đó ta xuất khẩu sang Chi-lê đạt 140,2 triệu USD và nhập khẩu từ Chi-lê là 358,8 triệu USD. Tỷ lệ nhập siêu năm 2011 là 156%. Các mặt hàng xuất khẩu của ta sang Chi-lê chủ yếu là hàng công nghiệp nhẹ như giầy dép, hàng dệt may, các sản phẩm điện tử, đồ gỗ, cà phê, thủy sản đã qua chế biến, hàng thủ công mỹ nghê. Việt Nam nhập khẩu từ Chi-lê chủ yếu là nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu như đồng, gỗ rừng trồng, bột giấy, bột cá làm thức ăn gia súc, gia cầm, hoa quả ôn đớn, rượu vang...
Một số nhà đầu tư hàng đầu trong giới ngân hàng, tài chính, công nghiệp Chi-lê thăm dò khả năng đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, trong đó, Công ty Ki-nhê-cô thuộc tập đoàn Lúc-xích đã được cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam (11/2006). Hiện hai nước đang thúc đẩy tiến hành khóa họp I Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam – Chi-lê (thành lập năm 2007), dự kiến trong Quý I năm 2012.
Chi-lê coi trọng và mong muốn phát triển quan hệ nhiều mặt với Việt Nam, nhất là về kinh tế thương mại; khẳng định coi Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong chính sách hướng sang Đông Nam Á; sẵn sàng làm cửa ngõ để hàng hoá Việt Nam đi vào thị trường khu vực; ủng hộ Việt Nam vào Uỷ ban Kinh tế và Xã hội của Liên hợp quốc - ECOSOC (10/1997), gia nhập WTO, làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an /LHQ nhiệm kỳ 2008-2009; hợp tác và hỗ trợ Việt Nam đăng cai tổ chức năm APEC 2006 và Hội nghị Cấp cao APEC 14 (11/2006). Bên lề HNCC APEC 15 (Sydney 2007), Chi-lê tuyên bố công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam cùng cam kết hai nước xúc tiến đàm phán FTA song phương. Ta ủng hộ Chi-lê vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc khóa 2008-2011 và đánh đổi phiếu vào HĐNQ/LHQ khóa 2011-2014. Sau trận động đất xẩy ra tại Chi-lê ngày 27/2/2010, Chính phủ Việt Nam quyết định ủng hộ Chi-lê 150.000 USD góp phần khắc phục khó khăn do thiên tai gây ra; Chính phủ Chi-lê thông qua Đại sứ quán Chi-lê tại Hà Nội cũng ủng hộ 15.000 USD cho đồng bào bị lũ lụt tại Đồng bằng sông Cửu Long (11/2011)./.
5/2012




