I. THÔNG TIN CHUNG
- Tên nước: Cộng hoà Liên bang Đức (Federal Republic of Germany)
- Là thành viên EU từ 01/01/1958, Schengen từ 19/6/1990.
- Thủ đô: Berlin
- Ngày Quốc khánh: 03/10 (Ngày thống nhất nước Đức).
- Vị trí địa lý: Đức nằm giữa lòng Châu Âu và được bao bọc bởi 9 nước láng giềng: Pháp, Áo, Thụy Sĩ, Séc, Ba Lan, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ và Luxemburg; giáp 2 biển là Biển Bắc và Biển Baltic.
- Diện tích: 357.021 km2; tổng chiều dài đường biên giới là 3.757 km.
- Khí hậu: Ôn đới hải dương/ lục địa ôn hoà.
- Dân số: 83 triệu; khoảng 19,3 triệu người có nguồn gốc nhập cư (23%); 10,6 triệu người nước ngoài sinh sống ở Đức (12,7% dân số).
- Tôn giáo: 24,7 triệu người theo đạo Công giáo - La mã, 24,32 triệu theo Tin lành, 31,15 triệu người theo các tôn giáo khác.
- GDP 2018: 3.388 tỷ Euro
- Thặng dư ngân sách 2018: 59,2 tỷ Euro (chiếm 1,7% GDP)
- Thu nhập bình quân đầu người năm 2018: 40.883 Euro
- Đơn vị tiền tệ: Euro.
- Ngôn ngữ: tiếng Đức.
- Cơ cấu hành chính: CHLB Đức là nhà nước liên bang gồm 16 bang, trong đó có 3 bang đồng thời là thành phố (Berlin, Hamburg, Bremen/Bremehaven). Cấp liên bang có thẩm quyền về chính sách đối ngoại, chính sách châu Âu, quốc phòng, tư pháp, lao động, xã hội, thuế và y tế. Các bang có thẩm quyền về trật tự an toàn xã hội, giáo dục phổ thông, đại học cũng như hành chính và cấp địa phương.
- Lãnh đạo chủ chốt: Tổng thống Frank-Walter Steinmeier (SPD), Thủ tướng Angela Merkel (CDU) ; Ngoại trưởng Heiko Maas (SPD) ; Chủ tịch Quốc hội Liên bang Wolfgang Schäuble (CDU) .
II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ
Cho tới thế kỷ 19, trong khu vực Trung Âu (nước Đức ngày nay) chỉ có cộng đồng lỏng lẻo với nhiều quốc gia nhỏ. Năm 1871, Thủ tướng Phổ Otto von Bismarck (1815 - 1898) đã thực hiện việc thống nhất các nhà nước cát cứ thành Đế chế Đức. Ngày 18/01/1871, Vua Phổ Wilhelm Đệ nhất được phong Hoàng đế.
Sau khi bị thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), tháng 11/1918, Hoàng đế Wihelm Đệ nhị tuyên bố thoái vị. Chính thể Đức chuyển sang nền cộng hòa theo thể chế nhà nước liên bang dân chủ (Cộng hòa Weimar). Tuy nhiên, tình hình kinh tế khó khăn do các khoản bồi thường bắt buộc sau chiến tranh, siêu lạm phát và nạn thất nghiệp đã làm nảy sinh bất đồng giữa các đảng phái ở Đức. Tháng 01/1933, A. Hitler lên nắm quyền (Đế chế thứ ba) và thực hiện chế độ độc tài chuyên chế, khủng bố những người bất đồng chính kiến và tàn sát có hệ thống người Do Thái ở châu Âu ròng rã suốt 12 năm.
- Ngày 01/9/1939, Đức xâm chiếm Ba Lan. Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và kết thúc với sự đầu hàng vô điều kiện của Đức ngày 07/5/1945. Đức và thủ đô Berlin bị chia thành 4 khu vực quân quản do quân đồng minh (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp) quản lý.
- Ngày 7/9/1949, ở phần đất quân quản của đồng minh phương Tây đã tổ chức tuyển cử, bầu Nghị viện Tây Đức và tuyên bố thành lập nước CHLB Đức.
- Ngày 7/10/1949, khu vực quân quản phía Đông Đức và phía đông Thủ đô Berlin tiến hành bầu cử, nước CHDC Đức được thành lập.
- Ngày 13/8/1961, bức tường Berlin được dựng lên chia cắt phía Đông và Tây của thành phố. Ngày 09/11/1989, chính quyền Đông Đức tuyên bố mở cửa bức tường Berlin.
- Ngày 03/10/1990, CHDC Đức sát nhập vào CHLB Đức thành nước Đức ngày nay.
- Ngày 24/6/1991, Quốc hội CHLB Đức đã bỏ phiếu chọn Berlin làm Thủ đô của nước Đức thống nhất.
III. THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC VÀ ĐẢNG PHÁI CHÍNH TRỊ
- Quốc hội Liên bang (Hạ viện):
Hệ thống bầu cử của Đức tương đối phức tạp, quy định mỗi đảng tranh cử phải giành được ít nhất 5% số phiếu bầu mới được tham gia Quốc hội Liên bang (QHLB). QHLB có quyền bầu và có thể bãi nhiệm Thủ tướng Liên bang bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm; lập pháp; giám sát các hoạt động của Chính phủ
Quốc hội Liên bang nhiệm kỳ thứ 19 (2017 - 2021) có 709 đại biểu, khoảng ½ được bầu theo danh sách đảng, ½ được bầu định danh trực tiếp.
- Hội đồng Liên bang (Thượng viện):
Hội đồng Liên bang (gồm 69 ghế) là cơ quan đại diện của 16 bang do Quốc hội các bang cử với số lượng tỉ lệ thuận với dân số của từng bang. Thủ hiến các bang thay nhau làm Chủ tịch Hội đồng Liên bang với thời hạn 1 năm. Chủ tịch Hội đồng liên bang thực hiện các công việc của Tổng thống khi Tổng thống vắng mặt.
- Tổng thống Liên bang:
Tổng thống do Hội nghị Liên bang (gồm Hạ viện và 630 đại biểu từ Nghị viện các bang) bầu ra, là đại diện cho CHLB Đức với tư cách là Nguyên thủ quốc gia (chủ yếu về mặt lễ tân), có thẩm quyền bổ nhiệm các thành viên Chính phủ, các thẩm phán của Tòa án Liên bang. Nhiệm kỳ của Tổng thống là 5 năm và không được tại vị quá 2 nhiệm kỳ.
- Thủ tướng Liên bang và Chính phủ:
Thủ tướng là thành viên duy nhất của Chính phủ Liên bang được Hạ viện bầu. Hiến pháp trao cho Thủ tướng quyền lựa chọn các Bộ trưởng; quyết định số lượng các bộ và ấn định thẩm quyền của các bộ.
Hệ thống bầu cử của Đức khiến cho từng đảng riêng rẽ rất khó đứng ra thành lập chính phủ mà thường phải liên minh với nhau. Từ cuộc bầu cử QHLB đầu tiên năm 1949 đến nay, đã có 22 Chính phủ liên minh ở Đức. Chính phủ Đức nhiệm kỳ 2017 – 2021 là Chính phủ đại Liên minh (CDU/CSU/SPD) gồm 15 Bộ và một cơ quan ngang Bộ là Phủ Thủ tướng.
- Tòa án Công lý Liên bang:
Các thẩm phán được Ủy ban bầu cử thẩm phán lựa chọn từ 16 bang và 16 thành viên do Hạ viện chỉ định. Sau đó các thẩm phán được Tổng thống bổ nhiệm (tuổi về hưu là 65).
- Toà án Hiến pháp Liên bang:
Tòa án Hiến pháp Liên bang (TAHPLB) có trụ sở tại thành phố Karlsruhe, gồm 2 tòa, mỗi tòa có 8 thẩm phán (một nửa do QHLB và một nửa do Hội đồng Liên bang bầu). Nhiệm kỳ của mỗi thẩm phán là 12 năm và không được bầu lại (tuổi về hưu là 68). TAHPLB có quyền hủy bỏ các đạo luật nếu xác định rằng những đạo luật đó vi hiến.
- Các đảng chính trị:
Ở Đức có khoảng 37 đảng đăng ký hoạt động, nhưng chỉ có một số đảng lớn có ghế trong Quốc hội Liên bang và thay nhau cầm quyền. Tại cuộc bầu cử Quốc hội Liên bang hôm 24/9/2017, đã có 6 đảng dành được ghế trong Quốc hội.
a. Đảng Xã hội Dân chủ (SPD), chiếm 153/709 ghế trong Quốc hội Liên bang, là đảng cánh tả lớn nhất và cũng là chính đảng lâu đời nhất ở Đức được thành lập năm 1863. Sau khi bị cấm trong thời kỳ chủ nghĩa phát xít, đảng được tái lập năm 1945. Với Cương lĩnh Godesberg năm 1959, đảng chính thức không còn là một đảng công nhân mà là một đảng quần chúng. Niềm tin của đảng là “Tự do, Công bằng và Đoàn kết”.
b. Liên minh Dân chủ/Xã hội Thiên chúa giáo (CDU/CSU), chiếm 246/709 ghế trong Quốc hội Liên bang. CDU là đảng cánh hữu lớn nhất ở Đức, thành lập năm 1945 và có khuynh hướng bảo thủ. CSU có đường lối bảo thủ tương tự nhưng chỉ hoạt động tại bang Bayern. Hai đảng này cùng nhau tạo thành một đảng phái chung trong Quốc hội Liên bang Đức, thường được gọi chung là “liên minh” hay “các đảng liên minh”.
c. Đảng Cánh tả (die Linke), chiếm 69/709 ghế trong Quốc hội Liên bang, là đảng kế thừa của đảng XHCN thống nhất Đức (SED - đảng lãnh đạo CHDC Đức trước đây), dựa trên lý tưởng XHCN, ủng hộ phong trào cánh tả và dân chủ xã hội.
d. Đảng Dân chủ Tự do (FDP), chiếm 80/709 ghế trong Quốc hội Liên bang, thành lập năm 1948, ủng hộ quyền tự do cá nhân, đặc biệt trong các vấn đề kinh tế và quyền công dân. FDP là đối tác Liên minh nhỏ, nhưng tham gia Chính phủ liên bang nhiều nhiệm kỳ. Trong cuộc bầu cử Quốc hội năm 2013, FDP đã không giành được vị trí nào trong Quốc hội Liên bang.
e. Đảng Xanh (Bündnis 90/Die Grünen), chiếm 67/709 ghế trong Quốc hội Liên bang, ra đời từ các phong trào xã hội mới cuối thập kỷ 1970 như phong trào phụ nữ, phong trào hòa bình và phong trào sinh thái. Năm 1983, Đảng được bầu vào Quốc hội Liên bang lần đầu tiên. Năm 1990, đảng Xanh hòa nhập với phong trào nhân dân Đông Đức (Liên minh 90) trở thành Liên minh 90/Xanh.
f. Đảng Sự lựa chọn khác vì nước Đức (AfD – Alternativ für Deutschland), năm 2017 lần đầu tiên có mặt trong Quốc hội Liên bang kể từ sau thế chiến thứ II, chiếm 94/709 ghế, thành lập năm 2013, theo đuổi chủ nghĩa dân túy, sùng bái tự tôn dân tộc, bài ngoại, chống Hồi giáo và chống người nhập cư, chống tiến trình nhất thể hóa sâu rộng trong EU, đặc biệt trong các liên minh tiền tệ và thuế quan.
IV. KINH TẾ
- Mô hình kinh tế:
Luật cơ bản của Đức không quy định một trật tự kinh tế nhất định nào nhưng loại trừ nền kinh tế thị trường thuần túy và tự do bằng cách gắn chặt vào đó nguyên tắc “Kinh tế thị trường xã hội” với phương châm “ít nhà nước như có thể, nhiều nhà nước như cần thiết”. Phương châm cơ bản là dựa trên nguyên tắc tự do của một nền kinh tế thị trường, bổ sung bằng những biện pháp cân bằng xã hội, nghĩa là nhà nước có một loạt các biện pháp phòng ngừa nguy cơ. Mô hình kinh tế thị trường xã hội của Đức rất chú trọng phúc lợi xã hội và dân sinh.
- Cơ cấu kinh tế:
Đức là một trong những nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới, đứng thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản về GDP. Từ năm 1975, Đức là thành viên của G7.
+ Công nghiệp: Các ngành công nghiệp chủ yếu là: chế tạo xe hơi, chế tạo máy móc, thiết bị, công nghiệp hóa chất, công nghiệp điện và điện tử. Đức có nhiều tập đoàn đa quốc gia tầm cỡ thế giới như BASF, Robert Bosch GmbH, E.On, Deutsche Telekom, Siemens AG, Deusche Bank, v.v… Tuy nhiên, xương sống của kinh tế Đức là các công ty có quy mô vừa và nhỏ (thu hút khoảng 20 triệu lao động).
+ Nông nghiệp: Phần lớn diện tích nước Đức dùng cho nông nghiệp, nhưng chỉ có 2-3% dân số Đức làm việc trong ngành này. Vùng bờ biển phía Bắc chuyên nuôi bò sữa và ngựa. Vùng chân núi Alps tập trung chăn nuôi gia cầm, lợn, bò và cừu. Đức nằm trong số các nước sản xuất sữa, chế phẩm sữa và thịt nhiều nhất thế giới.
+ Dịch vụ: Đây là ngành phát triển mạnh trong những năm gần đây và hiện đóng góp nhiều nhất vào GDP. Frankfurt là trung tâm tài chính lớn nhất của Đức và cũng là một trong những trung tâm tài chính hàng đầu thế giới.
+ Khoa học – công nghệ: Đức là một trong những nước đi đầu trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 với nhiều nỗ lực cải tiến sản xuất thông qua việc ứng dụng sâu rộng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học. Đức coi trọng công tác nghiên cứu và phát triển (R&D), tỷ trọng chi tiêu cho R&D của Đức (GERD ) tăng dần đều từ năm 2000 đến nay; từ năm 2015 tổng chi tiêu cho R&D chiếm 2,87% GDP (tương đương 157 tỷ Euro), tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp ô tô, công nghệ thông tin, hóa chất, dược phẩm và kỹ thuật cơ khí điện.
+ Giao thông: Đức là một trong những nước có mạng lưới giao thông dày nhất thế giới (đứng thứ 2 sau Mỹ), bao gồm 11.980 km đường cao tốc và 41.386 km đường liên tỉnh. Bên cạnh tài chính ngân hàng, Frankfurt cũng là trung tâm trung chuyển hàng không hàng đầu thế giới (sân bay Frankfurt chuyên chở khoảng 58 triệu lượt khách/năm). Hệ thống giao thông đường thủy và đường biển có vị trí rất quan trọng đối với một nền kinh tế hướng xuất khẩu như Đức. Hamburg là cảng biển lớn nhất Đức và cũng là một trong 3 cảng lớn nhất thế giới.
- Thương mại:
Đức ủng hộ tự do hóa thương mại. Xuất khẩu có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Đức, thu hút khoảng 25% lực lượng lao động. Đức đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu (khoảng 1.459 tỷ USD/năm) và nhập khẩu (khoảng 1.195 tỷ USD/năm). Hàng chế tạo và công nghệ chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu, bao gồm máy móc, hàng điện tử, ô tô, các sản phẩm hóa chất, thực phẩm, hàng dệt may, dụng cụ quang học và thiết bị điện. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc, phương tiện vận chuyển, hóa chất. Đối tác thương mại quan trọng nhất của Đức là EU, Mỹ, Trung Quốc. Thị trường EU chiếm gần 60% xuất khẩu của Đức. Bên cạnh tập trung vào thị trường EU và Mỹ, Đức cũng tìm cách mở rộng ra các thị trường đang nổi lên ở châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ La-tinh và châu Phi.
- Đầu tư:
Đức có môi trường đầu tư hấp dẫn nhờ sở hữu nhiều công nghệ nguồn, có vị trí địa - chính trị quan trọng ở trung tâm châu Âu, cơ sở hạ tầng chất lượng cao, pháp luật hoàn thiện, nguồn nhân lực có trình độ cao. Hiện có 45.000 công ty nước ngoài hoạt động tại Đức, trong đó có 500 tập đoàn hàng đầu thế giới. Đức cũng là nước đầu tư ra nước ngoài lớn thứ ba thế giới (với quy mô khoảng 1.648 tỷ USD), chủ yếu tập trung vào các nước EU và Trung Quốc.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Hiện Đức là thành viên tích cực và có vai trò quan trọng tại EU, NATO, OECD, LHQ, G7, G20... Đức ủng hộ một thế giới đa cực, tôn trọng luật pháp quốc tế, nhân quyền, ưu tiên đối thoại, phòng ngừa khủng hoảng và kiến tạo lòng tin. Kể từ ngày 01/01/2019, Đức chính thức đảm nhiệm vị trí Ủy viên không thường trực HĐBA/LHQ.
Tăng cường quan hệ với EU và xây dựng một châu Âu ngày càng kết nối chặt chẽ hơn là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Đức. Sau sự kiện Brexit (sự kiện Anh rút khỏi EU), Đức vẫn cam kết duy trì quan hệ đối tác tốt với Anh; cùng lúc khẳng định cần duy trì sự thống nhất và gắn kết trong EU. Trong khi thúc đẩy việc mở rộng EU sang phía Đông, Đức tiếp tục quan hệ trên tinh thần vừa hợp tác vừa kiềm chế với Nga trên mọi lĩnh vực, đặc biệt chú trọng hợp tác kinh tế, giải quyết vấn đề xung đột tại miền đông Ukraine trên nguyên tắc tôn trọng Thỏa thuận Minsk.
Quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương là cơ sở an ninh của Đức và châu Âu, dựa trên liên minh chính trị và quân sự. Tuy nhiên, dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump, mối quan hệ Đức – Mỹ có phần trở nên “lạnh nhạt” do Mỹ theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ, hai nước có nhiều quan điểm trái ngược nhau trong các vấn đề người tỵ nạn, tự do thương mại và ngân sách quốc phòng.
Đức đặc biệt chú trọng quan hệ với Trung Quốc, Ấn Độ và ngày càng quan tâm đến khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Đức thực hiện chính sách ngoại giao cân bằng trong quan hệ với các nước Trung Đông, đặc biệt trong mối quan hệ giữa Palestin và Ixraen; cố gắng cải thiện quan hệ với Thổ Nhĩ Kỳ sau hàng loạt các căng thẳng từ giữa năm 2016 đến nay.
Đối với khu vực châu Phi, Đức ngày càng tỏ quan tâm hơn đến khu vực này trong những năm gần đây. Đức dành 20% viện trợ phát triển Châu Phi cho các nước tiến hành cải tổ cần thiết, công bố bản chiến lược dài 33 trang (còn được gọi là Kế hoạch Marshall với khu vực Châu Phi) xác lập cấp độ mới trong quan hệ hợp tác bình đẳng giữa Châu Phi trong các lĩnh vực giáo dục, thương mại, phát triển kinh doanh và năng lượng. Tại các cuộc đàm phán thành lập Chính phủ đại liên minh năm 2017, Chính phủ Đức đã thống nhất ưu tiên khu vực châu Phi trong chính sách hợp tác phát triển giai đoạn 2017 – 2021.
Chính sách văn hóa và giáo dục - đào tạo đối ngoại là một phần trong chính sách đối ngoại của Đức, phần lớn được các tổ chức như Viện Goethe, Cơ quan trao đổi hàn lâm Đức DAAD, Quỹ Alexander von Humboldt, Viện Quan hệ nước ngoài và UNESCO của Đức thực hiện.
Trong vấn đề biển Đông, Đức ủng hộ lập trường chung của EU về việc giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hợp quốc về luật biển 1982.
VI. CHÍNH SÁCH HỢP TÁC PHÁT TRIỂN
Đức là nhà tài trợ lớn thứ hai thế giới, số đối tác nhận ODA của Đức gồm khoảng 70 nước, được phân làm hai loại là các nước trọng tâm và các nước đối tác phát triển. Năm 2017, ngân sách ODA của Đức đạt mức 23,8 tỷ Euro (chiến 0,66% GNI, tăng 36% so với năm 2016) cho nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt mức gia tăng là do các hoạt động hỗ trợ dành cho người tỵ nạn. Sau 44 năm cam kết sẽ nâng mức viện trợ phát triển lên 0,7% GDP theo như mục tiêu của LHQ, nước Đức lần đầu tiên chạm mức 0,7% GDP vào năm 2016 do các hoạt động cứu trợ người tỵ nạn, trở thành nước viện trợ đứng thứ 2 thế giới sau Mỹ. Do các chi phí hỗ trợ người tỵ nạn tại Đức gia tăng, đóng góp ODA của Đức năm 2018 giảm mạnh, chỉ chiếm 0,52% GNI (tương đương khoảng 18 tỷ Euro). Ngoài hợp tác song phương, Đức cũng là nước đóng góp nhiều cho ngân sách của các tổ chức đa phương như LHQ, World Bank, EU, IMF… để tài trợ cho các nước kém phát triển.
QUAN HỆ VIỆT NAM - CHLB ĐỨC
-----
I. CHÍNH TRỊ - NGOẠI GIAO
- Việt Nam và CHLB Đức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 23/9/1975. Từ đó đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước ngày càng phát triển tích cực, sâu rộng, hiệu quả và toàn diện. Từ nhiều năm nay, Đức là một trong những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam ở châu Âu. Sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước ngày càng được tăng cường thông qua duy trì trao đổi đoàn cấp cao và các cơ chế hợp tác. Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Đức Angela Merkel (tháng 10/2011), Thủ tướng hai nước đã ký Tuyên bố chung Hà Nội về việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược, trong đó đề ra các mục tiêu và biện pháp cụ thể tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực ưu tiên.
- Trao đổi đoàn cấp cao:
Đoàn ta thăm bạn: Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1993); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (1993); Thủ tướng Phan Văn Khải (2001); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (2004); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm (9/2010); Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh (9/2012); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (3/2013); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (3/2008 và 10/2014); Chủ tịch UBTW MTTQVN Nguyễn Thiện Nhân (6/2015); Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (11/2015); Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng (9/2016); Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc (7/2017).
Đoàn bạn thăm ta: Thủ tướng Helmut Kohl (1995); Chủ tịch Quốc hội Wolfgang-Thierse (2001); Thủ tướng Gerhard Schrӧder (2003 và 2004); Chủ tịch Hội đồng Liên bang Matthias Platzeck (2005); Tổng thống Horst Kӧhler (2007); Chủ tịch Hội đồng Liên bang Harald Ringstorff (2007); Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Frank-Walter Steinmeier (3/2008); Bộ trưởng Ngoại giao Guido Westerwelle (6/2011); Thủ tướng Angela Merkel (10/2011); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Kinh tế P. Roesler (9/2012); Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Kinh tế và Năng lượng Sigmar Gabriel (11/2014); Chủ tịch Quốc hội Đức Nobert Lammert dự IPU-132 tại Hà Nội (3/2015); Bộ trưởng Ngoại giao Đức Frank-Walter Steinmeier (10/2016).
- Quan hệ Đảng: Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) có cơ chế đối thoại lý luận thường niên, tổ chức luân phiên tại hai nước. Đối thoại lý luận lần thứ 5 đã diễn ra vào ngày 15/11/2016 tại Hà Nội và lần 6 diễn ra từ 2 – 7/7/2017 tại Berlin do Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Hoàng Bình Quân và Phó Chủ tịch Quốc hội Đức Edelgard Bulmahn chủ trì.
II. THƯƠNG MẠI – ĐẦU TƯ
Hai nước đã ký nhiều hiệp định tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế như: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư; các hiệp định hàng hải, hàng không.
- Thương mại:
Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam ở châu Âu (chiếm gần 20% xuất khẩu của ta sang EU) và cũng là cửa ngõ trung chuyển quan trọng của hàng hóa Việt Nam sang các thị trường khác ở châu Âu, kim ngạch hai chiều năm 2018 đạt trên 10 tỷ đô-la Mỹ (tăng 1 tỷ USD so với năm 2017, trong đó Việt Nam luôn xuất siêu). Kim ngạch thương mại hai chiều trong những năm qua như sau :
Năm 2015 2016 2017 2018 Tính đến tháng 3/2019
Xuất khẩu 5,71 5,95 6,36 6,87 0,98
Nhập khẩu 3,21 2,82 3,17 3,82 1,66
Tổng 8,92 8,78 9,53 10,69 2,64
(Nguồn : Tổng cục Hải quan Việt Nam, đơn vị : tỷ USD)
Việt Nam xuất khẩu sang Đức chủ yếu là điện thoại và linh kiện máy tính, hàng dệt may, giày dép, cà phê, nông thủy sản… và nhập từ Đức chủ yếu là máy móc, thiết bị, phụ tùng, phương tiện vận tải, ô tô, hóa chất, dược phẩm, các sản phẩm sữa.
Đức có vai trò tích cực trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) nhằm tăng cường hợp tác kinh tế giữa hai nước.
- Đầu tư:
Đức coi Việt Nam là thị trường có tiềm năng phát triển nhanh ở châu Á (chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ). Tính đến 30/01/2019, Đức có 323 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,97 tỷ USD, đứng thứ 4 trong EU và thứ 18/130 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam .
Hầu hết các dự án của Đức tập trung vào: (i) lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 102 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký là 865,28 triệu USD; (ii) lĩnh vực sản xuất, phân phối điện, khí với 8 dự án có tổng vốn đăng ký 704,38 triệu USD; (iii) lĩnh vực bán buôn, bán lẻ và sửa chữa với 65 dự án và tổng vốn đầu tư 191,48 triệu USD. Tiếp theo là các dự án trong ngành cấp nước và xử lý chất thải, tài chính ngân hàng, dịch vụ lưu trú, ăn uống… Vốn đầu tư của Đức tập trung vào: (i) hình thức 100% vốn nước ngoài với 247 dự án với tổng vốn đầu tư 1,47 tỷ USD, chiếm 74,8% tổng vốn đầu tư đăng ký; (ii) hình thức liên doanh chiếm với 72 dự án có tổng vốn đầu tư 492,57 triệu USD, chiếm 25% tổng vốn đầu tư đăng ký; (iii) còn lại là hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Các dự án của Đức phân bố tại 37 tỉnh, thành phố của cả nước, hầu hết tập trung ở các thành phố lớn, có điều kiện cơ sở hạ tầng tương đối phát triển như Đồng Nai (với 9 dự án có tổng vốn đầu tư là 301,4 triệu USD), Thành phố Hồ Chí Minh (148 dự án với tổng vốn đầu tư 274,68 triệu USD), kế đến là Ninh Thuận, Thanh Hóa, Quảng Nam, Hà Nội v.v….
Hiện có khoảng 300 doanh nghiệp Đức hoạt động tại Việt Nam. Một số tập đoàn đa quốc gia của Đức đang đầu tư tại Việt Nam như: Siemens (thiết bị, y tế), B.Braun (thiết bị y tế), Messer (khí hóa lỏng phục vụ luyện kim), Mercedes-Benz (ô tô), Bilfinger (tư vấn, thiết kế), Bosch (chế tạo máy), Deutsche Bank (ngân hàng), Allianz (bảo hiểm)...
Tính đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 29 dự án đầu tư còn hiệu lực tại Đức với tổng vốn đầu tư đạt 120,3 triệu USD. Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư sang Đức trong các lĩnh vực tài chính - ngân hàng, bán buôn bán lẻ - ô tô, xe máy, dịch vụ ăn uống và lưu trú, kinh doanh bất động sản, tin học, thương mại...
III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN
Đức là một trong những nước viện trợ nhiều và thường xuyên ODA cho Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, Đức đã cung cấp khoảng 2 tỷ USD cho các dự án ODA tại Việt Nam thông qua hợp tác kỹ thuật và hợp tác tài chính. Hợp tác kỹ thuật được thực hiện dưới hình thức cung cấp viện trợ không hoàn lại cho các dự án. Hợp tác tài chính bao gồm cả hai hình thức viện trợ không hoàn lại (khoảng 40%) và tín dụng ưu đãi (khoảng 60%). Tín dụng ưu đãi của Đức có mức ưu đãi cao với lãi suất thấp 0,75%/năm, thời gian vay 40 năm, 10 năm ân hạn. Chính phủ Đức đã cam kết dành cho Việt Nam khoản ODA hơn 600 triệu Euro trong giai đoạn 2015 - 2017 để thực hiện các dự án trong 3 lĩnh vực hợp tác ưu tiên là: (i) năng lượng; (ii) đào tạo nghề gắn với phát triển kinh tế bền vững; và (iii) chính sách môi trường và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Đức là một trong những đối tác quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực dạy nghề, đã hỗ trợ Bộ LĐTBXH xây dựng chiến lược dạy nghề quốc gia, soạn thảo Luật Dạy nghề cũng như xây dựng các trường dạy nghề kiểu mẫu ở một số địa phương theo mô hình đào tạo nghề song hành rất thành công của Đức.
Trong khuôn khổ chương trình “Make it in Germany” về hợp tác lao động quốc tế của Đức, giai đoạn 2013 - 2015, Việt Nam đã triển khai thí điểm đưa 200 điều dưỡng viên sang Đức đào tạo và làm việc (hợp đồng 3 năm sau khi tốt nghiệp đào tạo tại Đức). Tiếp nối thành công của chương trình này, phía Đức đã quyết định mở rộng tiếp nhận điều dưỡng viên Việt Nam sang Đức, trước mắt 100 người/năm trong giai đoạn 2016 - 2017.
Một số dự án lớn sử dụng ODA của Chính phủ Đức là: Xây dựng tuyến tầu điện ngầm số 2 tại Tp Hồ Chí Minh (240,75 triệu Euro); Nâng cao hiệu quả năng lượng khu vực nông thôn (120 triệu Euro); Giảm cường độ phát thải trong cung cấp năng lượng điện (120 triệu Euro), Nhà máy điện gió Phú Lạc 1 (35 triệu Euro) ...
IV. CÁC LĨNH VỰC KHÁC
- Văn hóa: Năm 1990, Việt Nam và Đức ký Hiệp định Hợp tác văn hoá tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hợp tác và trao đổi văn hóa giữa hai nước. Năm 1997, Đức thành lập Trung tâm Văn hóa Đức (hay còn còn gọi là Viện Gớt) tại Hà Nội. Đây là địa điểm thường xuyên tổ chức các hoạt động nhằm giới thiệu văn hóa Đức và giảng dạy tiếng Đức tại Việt Nam. Trong những năm lại đây, các hoạt động giao lưu văn hóa - nghệ thuật giữa hai nước diễn ra rất sôi động. Đức hỗ trợ Việt Nam thực hiện một số dự án về bảo tồn, phục chế các di sản văn hóa tại cố đô Huế; dự án “Báu vật khảo cổ học Việt Nam” được Ngoại trưởng bạn và Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch bảo trợ.
- Hợp tác giáo dục và đào tạo:
Hàng năm, Đức cung cấp cho Việt Nam nhiều học bổng đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ. Hiện có khoảng 300 nghiên cứu sinh Việt Nam nhận học bổng nghiên cứu tại Đức và khoảng 4600 sinh viên Việt Nam đang theo học tại các trường đại học của Đức. Ngoài ra, các cơ quan chức năng của hai nước đang tích cực triển khai Chương trình đào tạo 85 nghiên cứu sinh/năm tại bang Hessen của Đức.
Dự án “hải đăng” của hai nước trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo là trường Đại học Việt- Đức, được thành lập từ tháng 9/2008 tại thành phố Hồ Chí Minh, hoạt động theo mô hình của đại học Đức, với sự hỗ trợ tích cực của bang Hessen (Đức) và Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD). Trường đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt xây dựng thành trường đại học tiêu biểu xuất sắc có trụ sở tại huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương với nguồn vốn vay trị giá khoảng 200 triệu USD của Ngân hàng Thế giới, dự án đã khởi công xây dựng vào tháng 10/2016. Ngày 19/6/2017, Chính phủ Việt Nam đã thông qua quy chế tổ chức và hoạt động mới cho trường nhằm đảm bảo tính tự chủ cần thiết trong hoạt động giảng dạy cũng như vận hành trường. Ngày 8/9/2018, trường Đại học Việt – Đức đã tổ chức Lễ Kỷ niệm 10 năm thành lập trường với sự tham dự của các đoàn cấp Chính phủ của cả hai bên.
Chương trình dạy tiếng Đức là ngoại ngữ thứ hai là sáng kiến của Bộ Ngoại giao Đức, phía Đức cũng hỗ trợ các cơ sở đào tạo tiếng Đức tại Việt Nam về trang thiết bị đào tạo, cung cấp giáo viên bản ngữ và cấp học bổng cho giáo viên cũng như các sinh viên, học sinh đạt kết quả học tập xuất sắc. Ngày 21/01/2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 240/QĐ-BGDĐT về việc phê duyệt Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Đức – ngoại ngữ 2 theo “Đề án dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 – 2020”. Đến nay, thành phố Hà Nội đã có 03 trường đưa bộ môn tiếng Đức vào giảng dạy, bao gồm: THCS Đống Đa, THCS Trưng Vương và THPT Việt – Đức và theo kế hoạch trong năm 2017 – 2018 sẽ có thêm 03 trường gồm: THCS Ngô Sỹ Liên, THPT Nguyễn Gia Thiều, THPT Tây Hồ.
- Hợp tác tư pháp - pháp luật:
Hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực này khởi đầu từ năm 1996. Năm 2008, Chính phủ hai nước đã ký Tuyên bố chung về hợp tác trong lĩnh vực tư pháp, pháp luật. Trên cơ sở Tuyên bố chung, Bộ Tư pháp hai nước đã ký kết các văn kiện và triển khai Chương trình Đối thoại về Nhà nước pháp quyền cho các giai đoạn 2009 - 2011, 2012 - 2014 và 2015 - 2018. Trong khuôn khổ các chương trình này, hai bên đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm, các đoàn đi nghiên cứu, khảo sát… đạt kết quả thiết thực, góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật trong các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính, tư pháp của Việt Nam.
- Du lịch: Đức được đánh giá là một trong những thị trường quan trọng nhất của du lịch Việt Nam với số lượng trên dưới 100.000 lượt khách/năm thăm Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 2015 đạt 149.079 lượt khách; năm 2016, đạt 176.000 lượt người, tăng 18% so với năm 2015; năm 2017 đạt 199.000 lượt người; năm 2018 đạt 213.986 người, tăng 7% so với năm 2017.
Việt Nam và Đức chưa ký văn bản hợp tác du lịch; từ ngày 1/7/2015, Việt Nam đã thí điểm miễn thị thực cho công dân Đức đi du lịch Việt Nam trong thời gian 15 ngày.
- Khoa học công nghệ:
Trước năm 1995, hợp tác khoa học và công nghệ giữa Việt Nam và CHLB Đức được thực hiện chủ yếu thông qua các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ nghiên cứu với sự tài trợ của Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức (DAAD), Quỹ khoa học trẻ Alexander & Humboldt, Quỹ đào tạo chuyên gia trong ngành công nghiệp (CDG), Quỹ phát triển (DSE)...
Việt Nam và Đức đã ký Nghị định thư hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Bộ Khoa học và Công nghệ và Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức năm 1997; Ý định thư hợp tác về Khoa học - Công nghệ năm 2012 và Hiệp định cấp Chính phủ về Hợp tác Khoa học và Công nghệ năm 2015 (hiệp định có hiệu lực từ ngày 20/3/2017). Hai bên cũng thiết lập Tổ công tác liên Bộ KH&CN Việt Nam và Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Đức (BMBF), trao đổi đoàn luân phiên được 5 lần. Sau khi hai nước ký Hiệp định hợp tác KHCN, tổ công tác liên Bộ được nâng cấp thành Ủy ban hỗn hợp về khoa học công nghệ, dự kiến nhóm họp lần đầu vào năm 2018.
Từ năm 2010 trở về trước, hợp tác về khoa học công nghệ giữa Việt Nam và Đức tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu biển, công nghệ xử lý nước và môi trường. Từ năm 2011, trong khuôn khổ Chương trình khung Nghiên cứu vì sự phát triển bền vững của Đức, Bộ BMBK đã triển khai Chương trình hợp tác nghiên cứu “Quan hệ đối tác quốc tế cho công nghệ và dịch vụ bền vững để bảo vệ khí hậu và môi trường”, trong đó Việt Nam là một trong các nước ưu tiên hợp tác.
- Quốc phòng:
Quan hệ hợp tác về quốc phòng hai nước có những bước phát triển tích cực trong những năm qua. Từ 2003, Việt Nam cử Tùy viên Quốc phòng tại Berlin và Đức cử Tùy viên Quốc phòng tại Thái Lan kiêm nhiệm Việt Nam. Trong chuyến thăm Đức của Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà (10/2004), hai bên đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác hỗ trợ đào tạo quân nhân Việt Nam tại Đức. Hàng năm, một số sỹ quan quân sự Việt Nam đã tham gia các khóa huấn luyện tại các cơ sở quân đội của Đức. Kể từ năm 2019, Đức cho biết sẽ chính thức cử Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Việt Nam (Bộ Quốc phòng Việt Nam hiện đang làm các thủ tục xin chấp thuận cho vị trí này).
- Hợp tác với các bang của Đức
Bên cạnh quan hệ với Việt Nam ở cấp Chính phủ, các bang ở Đức rất chủ động tăng cường hợp tác với Việt Nam. Đến nay, ta đã đón nhiều Lãnh đạo các bang của Đức sang thăm Việt Nam như Thủ hiến các bang Brandenburg (2005), Bayern (2007), Mecklenburg-Vorpommern (2007), Baden - Württemberg (2010), Sachsen (2011), Hessen (2008, 2012), Berlin (2013), Hamburg (2017). Đặc biệt, nhân chuyến thăm Việt Nam tháng 10/2012 của Thủ hiến bang Hessen, hai bên đã ký Bản ghi nhớ về hợp tác ưu tiên, tạo khuôn khổ hợp tác sâu rộng hơn nữa giữa Việt Nam và bang Hessen và là hình mẫu cho hợp tác giữa Việt Nam với các địa phương của Đức.
VI. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM TẠI ĐỨC
Cộng đồng Việt Nam ở Đức hiện có 176.000 người (gồm 1600 doanh nghiệp), trong đó 20% đã nhập quốc tịch Đức . Nhìn chung, kiều bào ở Đức có cuộc sống tương đối ổn định, đa số theo diện làm công ăn lương hoặc buôn bán nhỏ.
Tại Đức, các hình thức tập hợp hội đoàn của người Việt khá đa dạng như Hội người Việt Nam, Hội Đức - Việt, các hội đồng hương, câu lạc bộ thơ - văn, nhiếp ảnh, tổ chức xã hội từ thiện… Đa số các tổ chức hội đoàn của người Việt có tinh thần yêu nước, là cầu nối quan trọng giữa các CQĐD của Việt Nam tại Đức và cộng đồng, tích cực vận động bà con hướng về quê hương và tham gia các phong trào quyên góp ủng hộ nạn nhân dioxin, ủng hộ các chiến sĩ ở hải đảo, tương trợ đồng bào lũ lụt v.v…
Thế hệ người Việt thứ hai ở Đức hội nhập khá thành công, được chính quyền sở tại đánh giá cao so với các cộng đồng nhập cư ở Đức (hơn 50% học sinh đỗ trung học hạng ưu, nhiều em là thành viên các đội tuyển học sinh xuất sắc của Đức như toán, võ thuật, thơ, văn, nhạc...). Hiện nay, có một số bang của Đức đã tạo điều kiện thí điểm đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy phổ thông như bang Brandenburg, Berlin, Sachsen và Sachsen Anhalt.
VII. CÁC HIỆP ĐỊNH ĐÃ KÝ GIỮA HAI NƯỚC
1. Hiệp định Hợp tác văn hóa giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHLB Đức (ký năm 1990).
2. Hiệp định hàng không giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHLB Đức (ký năm 1994, sửa đổi vào ngày 07/03/2014)
3. Hiệp định giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHLB Đức về thiết lập và hoạt động của các trung tâm văn hóa và thông tin trên lãnh thổ của nhau (ký năm 1997).
4. Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức về miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao (ký năm 2013).
5. Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHLB Đức về việc cho phép thành viên gia đình thành viên cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và phái đoàn thường trực tại tổ chức quốc tế được làm việc có thu nhập (ký năm 2015).
6. Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHLB Đức về Hợp tác khoa học và công nghệ (ký năm 2015).
Tháng 04/2019




