I. KHÁI QUÁT CHUNG:
Tên nước: Đại Công quốc Luých-xăm-bua (Grand Duchy of Luxembourg)
Thủ đô: Ville de Luxembourg
Ngày Quốc khánh: 23/06 (ngày sinh Đại Công tước Charlotte)
Vị trí địa lý: Nằm ở trung tâm Tây Âu, phía Đông giáp Đức, phía Tây giáp Bỉ, phía Nam giáp Pháp.
Diện tích: 2.590 km2
Khí hậu: Ôn đới
Dân số: 602.000 (2017)
Dân tộc: Luxembourg 52,1%, Bồ Đào Nha 16%, Pháp 7,6%, Italia 3,6%, Đức 2,2%, Tây Ban Nha 1,1%, Anh 1%, các nước khác 13%.
Ngôn ngữ: Tiếng Luxembourg là ngôn ngữ quốc gia; tiếng Pháp, Đức là ngôn ngữ hành chính; tiếng Anh được dùng thông dụng.
Đơn vị tiền tệ: Euro
GDP: 62,560$ (2017)
GDP/người: 109,100 $ (2017)
Tôn giáo: Thiên Chúa giáo
Lãnh đạo chủ chốt: Đại Công tước Ăng-ri (Henri, 07/10/2000); Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông, Bộ trưởng Tín ngưỡng Xa-vi-ê Bét-ten (Xavier Bettel, 2013); Ngoại trưởng Giăng A-xen-bon (Jean Asselborn, 31/7/2004); Chủ tịch Quốc hội Mắc Đi Ba-tô-lô-mê-ô (Mars Di Bartolomeo, 2013).
II. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ:
Đại Công quốc Luxembourg thành lập năm 963. Trong suốt gần 3 thế kỷ XVI, XVII và XVIII, Luxembourg lần lượt bị Tây Ban Nha (1506 – 1584), Pháp (1614 – 1697), Áo (1714 – 1794) xâm chiếm và thống trị. Hội nghị Viên (1814 – 1815) đã thừa nhận Luxembourg là một quốc gia độc lập. Tại Hội nghị Luân Đôn năm 1867, Luxembourg tuyên bố là quốc gia trung lập vĩnh viễn. Trong Chiến tranh Thế giới I và II, Luxembourg bị Đức xâm chiếm.
Năm 1949, Luxembourg từ bỏ chính sách trung lập và gia nhập NATO. Luxembourg là thành viên sáng lập Cộng đồng Than Thép châu Âu (năm 1951), Cộng đồng Kinh tế châu Âu (năm 1957) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (năm 1957), tiền thân của Liên minh châu Âu (EU) hiện nay.
III. THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC VÀ CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ:
Luxembourg là một nước quân chủ lập hiến. Đứng đầu quốc gia là Đại Công tước cha truyền con nối. Đại Công tước không tham gia nhiều vào đời sống chính trị của đất nước, nhưng chia sẻ quyền lập pháp với Nghị viện qua quyền đề xuất luật và công bố luật mà Nghị viện đã thông qua, quyền triệu tập các phiên họp đặc biệt của Nghị viện. Đại Công tước cũng chia sẻ quyền hành pháp với Chính phủ, đặc biệt qua việc thi hành luật, qua chức năng là tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang, đại diện cho quốc gia và ký kết các hiệp ước quốc tế. Đại Công tước có quyền giải tán Nghị viện.
Quốc hội Luxembourg chỉ có một Viện, gồm 60 đại biểu, có nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu. Cuộc bầu cử Quốc hội gần nhất diễn ra vào ngày 20/10/2013. Một số đảng chính trị lớn trong Quốc hội gồm:
+ Đảng Xã hội Thiên chúa giáo (CSV, thành lập năm 1944), đảng cánh hữu ôn hoà và là đảng của cựu Thủ tướng Jean-Claude Junker.
+ Đảng Công nhân Xã hội Luxembourg (LSAP, thành lập năm 1945), theo đường lối xã hội dân chủ.
+ Đảng Dân chủ (DP, thành lập năm 1955), đảng cánh hữu theo đường lối tự do, là Đảng của Thủ tướng đương nhiệm Xavier Bettel.
Chính phủ nắm quyền hành pháp và có quyền dự thảo luật. Chính phủ đương nhiệm được thành lập sau cuộc bầu cử ngày 20/10/2013, là chính phủ liên minh giữa đảng Dân chủ DP, LSAP và đảng Xanh. Các thành viên Chính phủ gồm Thủ tướng, một Phó Thủ tướng, 13 Bộ trưởng và 03 Quốc vụ khanh.
IV. KINH TẾ:
Trong những năm qua, Luxembourg luôn là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong EU (4,2% năm 2013; 4,7% năm 2014 và 3,5% năm 2015). Thu nhập GDP đầu người đứng đầu thế giới. Các lĩnh vực thế mạnh là thương mại, dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, hoá chất, cao su, nhựa, sản xuất thép, thực phẩm. Khu vực dịch vụ nói chung và dịch vụ tài chính ngân hàng nói riêng là động lực chính thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng (tài chính – ngân hàng hiện đóng góp 28% GDP của Luxembourg).
Cơ cấu GDP: nông nghiệp 2,2%, công nghiệp 17,2% và dịch vụ 80,6%.
Các bạn hàng chủ yếu của Luxembourg là Bỉ, Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Mỹ. Điều đáng chú ý là cán cân thương mại (hàng hoá) của Luxembourg thường xuyên thâm hụt, tuy nhiên cán cân thanh toán lại thặng dư, nhờ thu hút được nhiều nguồn tài chính từ bên ngoài.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI:
Mục tiêu chính sách đối ngoại của Luxembourg là “Phát huy vai trò trong EU, tham gia vào việc xây dựng một thế giới hoà bình, bảo vệ các giá trị cơ bản, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển”. Là nước nhỏ có nền kinh tế mở nên lợi ích của Luxembourg gắn liền với lợi ích của EU. Do vậy, Luxembourg luôn ủng hộ tiến trình xây dựng Liên minh châu Âu, ủng hộ việc mở rộng EU sang Trung và Đông Âu.
Chính sách hợp tác phát triển và hoạt động nhân đạo là một trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Luxembourg, thể hiện sự đoàn kết quốc tế được khẳng định nhờ vào sự nỗ lực và cải tiến không ngừng của Chính phủ Luxembourg.
Về chính sách hợp tác phát triển:
Tuy là nước nhỏ nhưng Luxembourg quan tâm đến hợp tác phát triển. Từ năm 2000, Luxembourg là một trong 5 nước công nghiệp phát triển dành 0,7% thu nhập quốc dân cho viện trợ phát triển và đã tăng lên đến 1,09% GDP vào năm 2010. Mục tiêu của chính sách hợp tác phát triển của Luxembourg là phục vụ công cuộc xoá đói giảm nghèo, đảm bảo cho sự phát triển bền vững tại các nước đang phát triển với trọng tâm là con người, phụ nữ và trẻ em. Cho tới nay, viện trợ phát triển của Luxembourg ưu tiên dành cho 9 nước trong đó có 5 nước thuộc tiểu vùng sa mạc Sahara (Burkina Faso, Cap Vert, Mali, Niger và Sénégal), 2 nước châu Mỹ La tinh (Nicaragua và El Salvador), 2 nước châu Á (Lào và Việt Nam).
Các lĩnh vực ưu tiên gồm: (i) nước và vệ sinh; (ii) giáo dục; (iii) đào tạo và hướng nghiệp; (iv) sức khỏe và phát triển địa phương.
Hợp tác phát triển của Luxembourg được thực hiện thông qua các Chương trình hợp tác định hướng (PIC), là khuôn khổ xây dựng các dự án, chương trình hợp tác nhiều năm giữa Luxembourg và các nước nhận viện trợ.
QUAN HỆ VIỆT NAM – LUXEMBOURG
I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ:
Việt Nam và Luxembourg thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 15/11/1973.
Đại sứ quán Việt Nam tại Bỉ kiêm nhiệm Luxembourg. Đại sứ quán Luxembourg tại Thái Lan kiêm nhiệm Việt Nam.
Tháng 8/2003, Luxembourg mở Văn phòng hợp tác phát triển tại Hà Nội, là cơ quan quản lý và thực thi chính sách về hợp tác phát triển, trực thuộc Đại sứ quán Luxembourg tại Thái Lan, kiêm nhiệm Việt Nam. Tháng 01/2016, vì lý do ngân sách, Bộ Ngoại giao Luxembourg đã đóng cửa Văn phòng tại Hà Nội.
Tại các diễn đàn đa phương, ta và Luxembourg duy trì gặp gỡ, tiếp xúc ở cấp Trưởng đoàn và ủng hộ lẫn nhau, cụ thể như Luxembourg ủng hộ Việt Nam ứng cử làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 – 2009 và Việt Nam ủng hộ Luxembourg ứng cử vào vị trí này nhiệm kỳ 2013 – 2014.
Đoàn ra:
- Tháng 4/1994: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm;
- Tháng 5/1995: Thủ tướng Võ Văn Kiệt;
- Tháng 9/2002: Thủ tướng Phan Văn Khải;
- Tháng 5/2003: Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Phạm Quang Nghị;
- Tháng 9/2010: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu;
- Tháng 02/2011: Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đoàn Xuân Hưng;
- Tháng 06/2012: Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh.
Đoàn vào:
- Tháng 3/1994: Bộ trưởng Kinh tế Robert Gebbels;
- Tháng 11/1995: Đại Công tước kế vị Henri;
- Tháng 3/1996: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Jacques Poos;
- Tháng 12/1999: Bộ trưởng Hợp tác Phát triển Charles Goerens;
- Tháng 10/2000: Thủ tướng Jean-Claude Juncker;
- Tháng 10/2002: Bộ trưởng Văn hóa, Đại học và Nghiên cứu Erna Hennicot-Schoepges;
- Tháng 02/2004: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Lydie Polfer;
- Tháng 12/2008: Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Jean Asselborn;
- Tháng 3/2011: Bộ trưởng Hợp tác Phát triển và các Hoạt động Nhân đạo Marie-Josée Jacobs;
- Tháng 11/2011: Đại Công tước Henri thăm Việt Nam.
II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ:
Tính đến tháng 5/2016, Luxembourg có 36 dự án đầu tư với tổng số vốn là 1,59 tỷ USD, đứng vị trí thứ 2 và chiếm 12,3% tổng vốn đầu tư đăng ký (đứng thứ 19/101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam), tập trung vào một số lĩnh vực: công nghiệp xây dựng (sản xuất đá granit, thiết bị vệ sinh…), công nghiệp chế biến thực phẩm (sản xuất kẹo, chocolat, cà chua cô đặc…), thông tin truyền thông và công nghệ cao (phát triển phần mềm). Dự án Công ty Cổ phần viễn thông di động Vietnamobile, cấp phép ngày 21/4/2016, tổng vốn đầu tư đăng ký 1,248 tỷ USD với mục tiêu thực hiện hoạt động thông tin truyền thông tại Hà Nội.
Trao đổi thương mại giữa hai nước còn hạn chế, chỉ đạt khoảng 5-6 triệu USD/năm trong giai đoạn trước nhưng tăng mạnh gần đây. Năm 2013, tổng kim ngạch lên 49 triệu USD; năm 2014 đạt 46 triệu USD (trong đó nhập khẩu 15 triệu USD, xuất khẩu 31 triệu USD); năm 2015 đạt 50 triệu USD (xuất khẩu 40 triệu USD, nhập khẩu đạt 10 triệu USD); năm 2016 (11 tháng) đạt 48 triệu USD (xuất khẩu 29 triệu USD, nhập khẩu 19 triệu USD).
III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN:
Sau khi bắt đầu chính thức viện trợ cho ta từ năm 1993, Luxembourg cam kết tiếp tục viện trợ phát triển cho Việt Nam và trở thành thành viên chính thức của Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam năm 1998. Tháng 3/1999, Cơ quan Hợp tác phát triển Luxembourg đề ra “Chiến lược hợp tác phát triển giữa Đại Công quốc Luxembourg và Việt Nam”, khẳng định Việt Nam là nước đứng đầu châu Á và là một trong 10 nước trọng điểm trong chương trình hợp tác phát triển của Chính phủ Luxembourg. Trước năm 2002, mỗi năm Luxembourg viện trợ không hoàn lại cho ta khoảng 5 – 6 triệu Euro/năm. Trong chuyến thăm chính thức Luxembourg của Thủ tướng Phan Văn Khải tháng 9/2002, hai nước đã ký Hiệp định khung hợp tác mới thay thế cho Hiệp định năm 1995. Cho đến nay, Việt Nam và Luxembourg đã ký 3 Chương trình hợp tác định hướng: giai đoạn 2002 – 2005 (35 triệu Euro); giai đoạn 2006 – 2010 (50 triệu Euro); giai đoạn 2011 – 2015 (42 triệu Euro). Các dự án tài trợ được thực hiện thông qua Văn phòng đại diện của Cơ quan thực hiện các dự án hợp tác phát triển Lux – Dev, là một công ty được Chính phủ Luxembourg uỷ quyền thực hiện các dự án do Luxembourg tài trợ.
Luxembourg quyết định không ký tiếp các Chương trình hợp tác định hướng cho Việt Nam giai đoạn sau 2015 vì Việt Nam đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, các chuyên gia của Lux-Dev tiếp tục hỗ trợ để thực hiện và hoàn tất các dự án tài trợ.
IV. HỢP TÁC VĂN HÓA:
Hợp tác văn hoá giữa hai nước còn nhiều hạn chế do khoảng cách địa lý và hai bên không có cơ quan đại diện ngoại giao thường trú. Tháng 10/2002, hai bên đã phối hợp tổ chức Những ngày văn hoá Việt Nam tại Luxembourg và Triển lãm tranh Luxembourg tại Việt Nam. Cuối tháng 9/2006, Việt Nam tổ chức “Những ngày văn hoá Việt Nam tại Luxembourg”.
IV. CÁC HIỆP ĐỊNH ĐÃ KÝ:
- Hiệp định Khung về hợp tác (20/01/1995);
- Hiệp định tránh đánh thuế trùng (3/1996);
- Hiệp định về hợp tác (24/9/2002; thay thế cho Hiệp định năm 1995);
- Chương trình hợp tác định hướng giai đoạn 2002 – 2005 (ký 24/9/2002);
- Hiệp định hợp tác Văn hoá, Giáo dục, Nghiên cứu khoa học, Thông tin đại chúng, Thanh niên và Thể thao (5/2003);
- Chương trình trao đổi Văn hóa Giáo dục, Nghiên cứu khoa học, Thông tin đại chúng, Thanh niên và Thể thao giai đoạn 2006 – 2010 (01/12/2005; gia hạn đến 31/12/2012);
- Chương trình Hợp tác định hướng giai đoạn 2006 – 2010 (08/3/2006);
- Chương trình Hợp tác định hướng giai đoạn 2011 – 2015 (02/3/2011).




