KHÁI QUÁT CHUNG
1. Tên nước: Đại Hàn Dân Quốc (Republic of Korea).
2. Các ngày lễ lớn:
- Ngày 03/10/2333 trước CN là Ngày Lập quốc, còn gọi là Lễ Khai thiên; cơ quan đại diện của Hàn Quốc ở ngoài nước tổ chức chiêu đãi vào ngày này.
- Ngày 15/8/1945 là Ngày Giải phóng (Bán đảo Triều Tiên thoát khỏi sự chiếm đóng của Nhật Bản); Hàn Quốc tổ chức mít tinh kỷ niệm long trọng, Tổng thống đọc diễn văn; Lãnh đạo các nước gửi điện mừng.
- Ngày 15/8/1948 là Thành lập Chính phủ Đại Hàn Dân Quốc.
3. Thủ đô: Xơ-un (Seoul).
4. Vị trí địa lý: Ở phía Nam Bán đảo Triều Tiên; Đông, Tây, Nam giáp biển; Bắc giáp Triều Tiên qua giới tuyến quân sự chạy dọc vĩ tuyến 38o Bắc.
5. Diện tích: 99.720 km2.
6. Dân số: 51,4 triệu người (10/2018).
7. Dân tộc: 01 dân tộc là dân tộc Hàn (Triều Tiên gọi là dân tộc Triều Tiên). Hàn Quốc đang chuyển dần từ một đất nước chỉ có một dân tộc, một ngôn ngữ sang xã hội “đa dân tộc, đa văn hóa”. Đến tháng 10/2018, có khoảng 2 triệu người nước ngoài cư trú tại Hàn Quốc, trong đó có khoảng 155.000 người kết hôn di trú.
8. Hành chính: gồm 08 tỉnh, 01 tỉnh tự trị đặc biệt (đảo Chê-chu), 06 thành phố đô thị , 01 thành phố đặc biệt (thủ đô Xơ-un). Các cấp hành chính gồm tỉnh, thành phố, huyện, quận, thị trấn, ấp, phường, làng.
9. Tôn giáo: các tôn giáo lớn là Phật giáo, Cơ đốc giáo, Thiên chúa giáo, Nho giáo, Hồi giáo.
10. Ngôn ngữ: Tiếng Hàn Quốc, lấy âm Xơ-un làm chuẩn.
11. Chế độ chính trị:
Hiến pháp năm 1948 quy định Hàn Quốc theo chế độ Cộng hoà, tam quyền phân lập, trong đó:
- Quốc hội và Tổng thống do dân bầu trực tiếp; Thủ tướng và Chánh án Toà án nhân dân do Tổng thống đề cử và Quốc hội thông qua (trong vòng 20 ngày).
- Tổng thống lãnh đạo Chính phủ.
- - Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội. Quốc hội Hàn Quốc theo chế độ một viện, gồm 300 ghế. Hiện Quốc hội gồm 07 chính đảng: đảng cầm quyền Dân chủ Đồng hành (130 ghế), đảng Hàn Quốc Tự do (113 ghế), đảng Tương lai Công chính (30 ghé), đảng Hòa bình Dân chủ (14 ghế), đảng Chính nghĩa (06 ghế), đảng Dân chúng (01 ghế), đảng Đại Hàn Ái Quốc (01 ghế). Nghị sỹ Quốc hội được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, có nhiệm kỳ 04 năm.
12. Lãnh đạo chủ chốt hiện nay:
- Tổng thống: ông Mun Che In (Moon Jae In), từ 10/5/2017.
- Thủ tướng: ông Li Nác Yên (Lee Nak Yeon), từ 31/5/2017.
- Chủ tịch Quốc hội: ông Mun Hi Sang (Moon Hee Sang), từ 13/7/2018.
- Bộ trưởng Ngoại giao: bà Kang Kiêng Hoa (Kang Kyung Wha), từ 18/6/2017.
TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
Hàn Quốc là nền kinh tế lớn thứ 4 Châu Á, thứ 11 thế giới. Năm 2017, GDP đạt 1.530 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 29.730 USD (thứ 29 thế giới); triển vọng tăng trưởng kinh tế năm 2018 đạt 2,7%. Kim ngạch thương mại 9 tháng đầu năm đạt 845,8 tỷ USD, trong đó xuất khẩu đạt 450,4 tỷ USD (tăng 4,7% so với cùng kỳ năm 2017), nhập khẩu đạt 395,4 tỷ USD (tăng 11,4%), xuất siêu đạt 54,9 tỷ USD.
Hiện Hàn Quốc đang hướng tới phát triển bền vững, hài hòa; điều chỉnh kết cấu kinh tế theo hướng tăng cường nội nhu thông qua tạo việc làm và kích thích tiêu dùng, lấy phát triển các ngành công nghiệp, khoa học hiện đại làm động lực tăng trưởng mới; chú trọng giải quyết các vấn đề về an sinh xã hội, môi trường, an ninh, an toàn, phát triển cân đối, đồng đều giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn. Hàn Quốc đã ký 15 FTA với 52 quốc gia, trong đó có nhiều đối tác quan trọng (Mỹ, Trung Quốc, EU, ASEAN...), trong đó đang đàm phán lại FTA song phương Mỹ - Hàn theo đề xuất của Mỹ.
“Kỳ tích sông Hàn” là quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc được Tổng thống Pắc Chơng Hi khởi xướng, kéo dài từ sau Chiến tranh Triều Tiên tới trước thời kì Khủng hoảng kinh tế Châu Á (1997). Trong thời gian này, Hàn Quốc áp dụng chiến lược “Phát triển kinh tế định hướng đối ngoại” nhằm chuyển đổi hoàn toàn của nền kinh tế quốc gia thông qua xuất khẩu. Hàn Quốc xây dựng kế hoạch phát triển định hướng xuất khẩu từ những năm 1960; lấy công nghiệp hóa chất làm trọng tâm của chính sách công nghiệp quốc gia trong thập niên 1970; tái cấu trúc nền công nghiệp nhằm thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm 1980; mở cửa và tự do hóa thị trường trong thập kỷ 1990; lồng ghép cải cách vào ngành công nghiệp và khuyến khích tăng cường minh bạch nhằm đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997).
Phong trào “Làng mới” (Saemaul) là mô hình phát triển nông thôn điển hình tại Hàn Quốc đóng góp vào “Kỳ tích sông Hàn”; được Tổng thống Pác Chơng Hi khởi xướng vào thập niên 70. Mô hình đã được triển khai trên toàn quốc, chủ yếu dựa vào ngân sách và lực lượng lao động địa phương.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Sau khi lên nắm quyền (5/2017), Tổng thống Mun Che In đẩy mạnh thực hiện phát triển bền vững, hài hòa; tăng cường hợp tác phát triển, chống bảo hộ mậu dịch; coi trọng quan hệ đồng minh với Mỹ, tăng cường quan hệ với các nước lớn, triển khai mạnh Chính sách hướng Nam mới với trọng tâm là ASEAN và Ấn Độ.
Về quan hệ liên Triều, Hàn Quốc chủ trương giải quyết vấn đề hạt nhân, tên lửa Triều Tiên thông qua duy trì sức ép về đối ngoại, đồng thời thúc đẩy đối thoại, hòa giải, đóng vai trò trung gian tích cực trong thúc đẩy đối thoại giữa Triều Tiên với các nước, nhất là Mỹ; đề xuất Sáng kiến Béc-lin nhằm thay thế Hiệp định đình chiến bằng Hiệp định hòa bình, luật hóa việc tuân thủ các thỏa thuận liên Triều, chủ trương đi đầu trong hỗ trợ Triều Tiên nếu nước này từ bỏ hạt nhân; cùng Triều Tiên ba lần tiến hành Hội đàm thượng đỉnh liên Triều (27/4/2018, 26/5/2018, 19 - 20/9/2018) và ra Tuyên bố chung Bàn Môn Điếm, Tuyên bố chung Bình Nhưỡng về việc nhất trí chấm dứt toàn diện các hành động thù địch, tổ chức gặp gỡ các gia đình ly tán, tiến tới ra Tuyên bố kết thúc chiến tranh trong năm 2018, thúc đẩy các cơ chế đàm phán 3 bên (Hàn - Triều - Mỹ) hoặc 4 bên (Hàn - Triều - Mỹ - Trung) để trao đổi việc ký kết Hiệp định hòa bình thay cho Hiệp định đình chiến hiện nay.
QUAN HỆ VIỆT NAM - HÀN QUỐC
1. Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao: 22/12/1992
2. Những mốc lớn trong quá trình phát triển quan hệ:
- Hàn Quốc đưa khoảng hơn 30 vạn quân sang Việt Nam tham gia cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ (1964 – 1973).
- Từ 1975 - 1982, Việt Nam và Hàn Quốc bắt đầu có quan hệ buôn bán tư nhân qua trung gian; từ 1983 có quan hệ buôn bán trực tiếp và một số quan hệ phi chính phủ.
- Ngày 20/4/1992, ký thoả thuận trao đổi Văn phòng liên lạc giữa hai nước.
- Ngày 22/12/1992, ký Tuyên bố chung thiết lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ. Cùng ngày, Hàn Quốc khai trương Đại sứ quán tại Hà Nội.
- Tháng 03/1993, Việt Nam khai trương Đại sứ quán tại Seoul.
- Tháng 11/1993, Hàn Quốc mở Tổng Lãnh sự quán tại TP. Hồ Chí Minh.
- Tháng 8/2001, hai nước ra tuyên bố chung về “Quan hệ đối tác toàn diện thế kỷ 21 Việt Nam – Hàn Quốc” nhân chuyến thăm Hàn Quốc của Chủ tịch nước Trần Đức Lương.
- Tháng 10/2009, quan hệ hai nước được nâng cấp lên thành Đối tác hợp tác chiến lược nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc Li Miêng Bác (Lee Myeong Bak).
3. Tình hình quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc hiện nay:
Về chính trị, hợp tác an ninh và quốc phòng: Hoạt động trao đổi đoàn, tiếp xúc song phương được duy trì thường xuyên. Trong năm 2015, Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc (3/2015;), Cựu Tổng thống Li Miêng Bác (10/2015) thăm Việt Nam; Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh (5/2015), Bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải (5/2015) thăm Hàn Quốc. Trong năm 2016, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã gặp Tổng thống Hàn Quốc Pắc Cưn Hê bên lề HNCC ASEM 11 (15/7, Mông Cổ), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Yun Biêng Sê bên lề Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN 49 (24/7, Lào); Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Nguyễn Thiện Nhân (8/2016) và Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP. HCM Đinh La Thăng (9/2016) thăm Hàn Quốc. Trong năm 2017, Chủ tịch Quốc hội Hàn Quốc Châng Sê Kyun (4/2017), Đặc phái viên của Tổng thống Hàn Quốc Pác Uân Sun (5/2017), Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Yun Biêng Sê (3/2017) thăm Việt Nam; Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình (11/2017), Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh (12/2017), Ủy viên Trưng ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu (29/6-1/7) thăm Hàn Quốc. Trong năm 2018, Tổng thống Hàn Quốc Mun Che In thăm cấp Nhà nước (22-24/3/2018), Bộ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Kang Kiêng Hoa thăm chính thức Việt Nam (8-10/3/2018), Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Sông Yêng Mu thăm chính thức Việt Nam (4-6/6/2018). Thủ tướng Li Nác Yên sang Việt Nam dự lễ viếng cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang (25-26/9/2018).
Hai bên đang duy trì kênh trao đổi theo cơ chế “Đối thoại chiến lược Ngoại giao – An ninh – Quốc phòng cấp Thứ trưởng”, “Đối thoại an ninh Việt – Hàn cấp Thứ trưởng” và “Đối thoại Quốc phòng Việt – Hàn cấp Thứ trưởng”. Hai bên đã ký Bản ghi nhớ hợp tác về bảo mật, an toàn thông tin (28/6/2012), Bản ghi nhớ về bảo mật thông tin quân sự (21/7/2014), Biên bản thỏa thuận về khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh (14/6/2016), hiện đang trao đổi để xúc tiến ký Bản ghi nhớ hợp tác về phòng chống tội phạm xuyên quốc gia và Bản ghi nhớ về tương trợ tư pháp dân sự.
Về hợp tác kinh tế: Hàn Quốc là một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của ta, đứng thứ 1 về đầu tư, năm 2017 vượt Mỹ đứng thứ 2 về thương mại (sau Trung Quốc), thứ 2 về ODA (sau Nhật Bản). Các cơ chế hợp tác song phương tiếp tục được duy trì như Ủy ban liên Chính phủ về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật Việt Nam – Hàn Quốc, Ủy ban hỗn hợp cấp Bộ trưởng về hợp tác trong lĩnh vực điện hạt nhân, năng lượng và công nghiệp.
Về hợp tác lao động: Hàn Quốc là thị trường nhập khẩu lao động lớn thứ 2 của ta (sau Đài Loan) và ta là nước xuất khẩu lao động lớn thứ 2 (sau Trung Quốc). Hiện ta có hơn 48.000 lao động đang làm việc tại Hàn Quốc. Nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Hàn Quốc Mun Che In (tháng 3/2018), hai bên đã ký lại Bản ghi nhớ thông thường về phái cử và tiếp nhận lao động Việt Nam theo Chương trình cấp phép việc làm cho lao động nước ngoài (EPS). Hai bên đang triển khai thí điểm đưa lao động tại một số địa phương Việt Nam sang Hàn Quốc làm việc thời vụ trong lĩnh vực nông nghiệp.
Về hợp tác du lịch: Những năm gần đây, Hàn Quốc nổi lên là một trong những thị trường cung cấp khách du lịch trọng điểm của Việt Nam (lớn thứ 2 sau Trung Quốc). Năm 2017, trên 2,5 triệu lượt du khách Hàn Quốc đã tới Việt Nam, tăng 56% so với cùng kỳ năm 2016, khách Việt Nam đến Hàn Quốc đạt khoảng 325 nghìn lượt người tăng 29% so với cùng kỳ năm trước. Trong 9 tháng đầu năm 2018, khách du lịch Hàn Quốc đến Việt Nam đạt 2,5 triệu lượt người, tăng 49,6% so với cùng kỳ năm trước. Hiện trung bình mỗi tháng có hơn 1.000 chuyến bay thẳng Việt Nam - Hàn Quốc.
Về hợp tác tư pháp: Quan hệ hợp tác giữa Tòa án Việt Nam và Tòa án Hàn Quốc được triển khai từ năm 2002. Dự án Tăng cường năng lực Trường Cán bộ tòa án (nay là Học viện Tòa án) là dự án hợp tác nổi bật nhất; nhằm đào tạo, bồi dưỡng Thẩm phán, cán bộ Tòa án, đào tạo nâng ngạch các chức danh trong hệ thống Tòa án, góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử, giải quyết các loại án. Chính phủ hai nước đang thúc đẩy đàm phán ký Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng, tạo điều kiện để công dân mỗi nước yên tâm sinh sống, làm việc tại nước kia.
Về hợp tác giáo dục: Hai nước đã ký Hiệp định văn hoá (8/1994), Bản ghi nhớ về hợp tác văn hóa nghệ thuật, thể thao và du lịch (10/2008) cùng nhiều thoả thuận hợp tác giao lưu thanh niên và giáo dục khác. Năm 2006, Hàn Quốc thành lập Trung tâm văn hóa Hàn Quốc tại Hà Nội. Ngày 16/02/2016, Bộ Giáo dục đào tạo và Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam ký Thỏa thuận dạy thí điểm tiếng Hàn ở cấp trung học.
Về hợp tác nông nghiệp: Hàn Quốc tích cực hỗ trợ Việt Nam triển khai mô hình Nông thôn mới, nổi bật nhất là Chương trình hạnh phúc tại Quảng Trị và Lào Cai.
Về hợp tác khoa học kỹ thuật: Năm 1995, Việt Nam – Hàn Quốc đã ký kết Hiệp định về hợp tác khoa học và công nghệ cấp chính phủ. Trong lĩnh vực công nghệ cao, Ban Quản lý Khu Công nghệ cao Hòa Lạc và Khu Công viên Khoa học Chung Nam – Hàn Quốc đã ký Thỏa thuận hợp tác (tháng 6/2010). Dự án Vườn ươm công nghệ Việt Nam – Hàn Quốc tại thành phố Cần Thơ đã khánh thành ngày 14/11/2015. Hiện Việt Nam và Hàn Quốc đang xúc tiến đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án Viện Khoa học kỹ thuật Việt Nam – Hàn Quốc (V-KIST). Hợp tác về sở hữu trí tuệ được tăng cường thông qua việc trao đổi cán bộ, thông tin, đào tạo cán bộ theo các chương trình đào tạo của Cục Sở hữu trí tuệ Hàn Quốc (KIPO), Trung tâm đào tạo quốc tế về sở hữu trí tuệ (IIPTI), hợp tác trong lĩnh vực tự động hóa quản lý sở hữu trí tuệ, thực thi quyền và các vấn đề liên quan đến Hiệp ước Hợp tác Sáng chế (PCT). Về năng lượng nguyên tử, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam và Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên tử Hàn Quốc đã ký Bản ghi nhớ hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (3/2007).
Về giao lưu nhân dân và hợp tác địa phương: Theo thống kê của Cục quản lý xuất nhập cảnh Hàn Quốc, tới tháng 10/2018, cộng đồng người Việt tại Hàn Quốc có hơn 160.000 người, trong đó có hơn 48.000 lao động, 40.000 công dân kết hôn di trú, 21.000 du học sinh. Hàn Quốc cũng có cộng đồng khoảng 150.000 kiều dân tại Việt Nam, phần lớn là doanh nhân. Hai bên thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu hữu nghị tại mỗi nước, góp phần tăng cường hiểu biết và tin cậy giữa nhân dân hai nước. Hơn 50 tỉnh, thành, địa phương của hai nước đã ký kết và đang triển khai hiệu quả các thỏa thuận hợp tác. Chính phủ hai nước đang thúc đẩy đàm phán ký Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng, tạo điều kiện để công dân mỗi nước yên tâm sinh sống, làm việc tại nước kia./.
Tháng 10 năm 2018

